Kiện toàn để cải thiện dịch vụ logistics


Những giải pháp mới để cải thiện logistics sẽ giúp thúc đẩy cả ngành sản xuất, XK nói chung.
Tại đợt tập huấn nghiệp vụ về cải thiện dịch vụ logistics đang được diễn ra tại Hà Nội (từ 27 đến 30-1), do Ủy ban hợp tác kinh tế công nghiệp ASEAN – Nhật Bản (AMEICC) chủ trì, phối hợp tổ chức cùng Viện Hệ thống logistics Nhật Bản (JILS) và Hiệp hội Chủ hàng Việt Nam (VNSC), ông Michiro Sakai, Trưởng trung tâm Viện nghiên cứu LDC đã mang đến cho các DN Việt Nam những phương pháp mới để cải thiện, giảm thiểu chi phí cho hoạt động logistics.

Theo ông Michiro Sakai, để tối ưu hóa, DN phải đảm bảo được 3 vấn đề chính. Đầu tiên, DN phải hướng mọi dịch vụ, tất cả phòng ban, tổ chức đến khách hàng, đáp ứng giá trị khách hàng. Bên cạnh đó, các DN cần cải thiện, cách tân tổng thể mọi hoạt động, có những đối sách phù hợp cho toàn bộ quá trình. Cuối cùng, không nên chỉ giới hạn các nhà sản xuất mà các DN phải luôn chú ý tới việc giảm thiểu chi phí trên toàn bộ dây chuyền cung ứng.

Đặc biệt, để tăng tối đa lợi nhuận, theo ông Michiro Sakai, DN cần quan tâm đến chi phí cho cả một quá trình từ lên kế hoạch, phát triển, chế tạo, chuyển đến tay người tiêu dung cho tới khi món hàng hết giá trị sử dụng, mang đi tiêu hủy. Những chi phí như phí đào tạo, phí kỹ thuật, phí lưu kho, chi phí hủy, phí xử lý môi trường… chưa được nhiều DN coi trọng, hoặc không biết đến nên thường bỏ qua. Trong khi thực tế, những chi phí này nếu tổng hợp lại thì sẽ đóng góp doanh thu không hề nhỏ cho DN.

Cùng với những phương pháp cải thiện logistics, để giảm chi phí logistics, DN cần có những biện pháp cải thiện bằng các phương pháp cụ thể như: nâng cao hiệu suất chất hàng lên xe tải, nâng cao hiệu suất bảo quản hàng, cải thiện cách thức đóng gói…

Tuy nhiên, để hỗ trợ tốt hơn cho các DN logistics có điều kiện phát triển, ông Nguyễn Tương, Trưởng Văn phòng đại diện Hiệp hội Logistics Việt Nam tại Hà Nội cho rằng, bên cạnh tự thân các DN phát triển, các DN cần được hỗ trợ thông tin nhiều hơn, cần có sự gắn kết, gặp gỡ giữa các cơ quan chức năng với DN giúp DN kinh doanh thuận lợi. Đặc biệt, các DN logistics cần nhiều sự giúp sức từ phía Hải quan để giải đáp những vướng mắc, cải thiện thủ tục, nâng cao dịch vụ

Không phân biệt người khai hải quan theo loại hình hàng hóa


Quy định về người khai hải quan tại Nghị định số 08/2015/NĐ-CP (Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan) không phân biệt loại hình hàng hóa nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích thương mại… để tạo điều kiện hơn cho chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam.

Tại Điều 5 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định về người khai hải quan, bao gồm:

“Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp chủ hàng hóa là thương nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam thì phải thực hiện thủ tục hải quan thông qua đại lý hải quan.

Chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh hoặc người được chủ phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh ủy quyền.

Người được chủ hàng hóa ủy quyền trong trường hợp hàng hóa là quà biếu, quà tặng cá của nhân; hành lý gửi trước, gửi sau chuyến đi của người xuất cảnh, nhập cảnh.

Người thực hiện dịch vụ quá cảnh hàng hóa.

Đại lý làm thủ tục hải quan

Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trừ trường hợp chủ hàng có yêu cầu khác”.

Trước đây, tại điều 5 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP (Nghị định 154) quy định người khai hải quan gồm: Chủ hàng hóa XK, NK; tổ chức được chủ hàng hóa XK, NK ủy thác; người được ủy quyền hợp pháp (áp dụng trong trường hợp hàng hóa, vật phẩm XK, NK không nhằm mục đích thương mại); người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh; đại lý làm thủ tục hải quan; DN cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế.

Tuy nhiên, trong thực tế, quy định ủy quyền khai trong trường hợp hàng hóa phi mậu dịch và trong thực tế phát sinh một số trường hợp phải hướng dẫn bằng văn bản như Công ty ủy quyền cho Chi nhánh đứng tên trên tờ khai hải quan và thực hiện thủ tục hải quan, do vậy, cần bổ sung quy định cho phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế.

Vì vậy, khắc phục bất cập từ thực tế, tại khoản 14 Điều 4 Luật Hải quan 2014 đã quy định người khai hải quan bao gồm: Chủ hàng hoá; chủ phương tiện vận tải; người điều khiển phương tiện vận tải; đại lý làm thủ tục hải quan, người khác được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền thực hiện thủ tục hải quan. Luật không phân biệt loại hình hàng hóa nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích thương mại.

Thực tế thời gian qua, quá trình hoạt động hải quan đã phát sinh một số vướng mắc, cụ thể đối với trường hợp chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam. Trong khi đó, Nghị định 154 chưa quy định đối tượng này là người khai hải quan. Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cho phép thương nhân không có hiện diện tại Việt Nam được quyền XK, NK hàng hóa. Đồng thời trong hoạt động thương mại quốc tế có phát sinh các điều kiện mua bán hàng hóa như EXW, FCA, DDU, DDP… và có liên quan đến trách nhiệm của người mua, người bán nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam về việc thực hiện thủ tục hải quan để XK hàng hóa.

Ví dụ: DN Việt Nam NK theo điều kiện DDP hoặc hình thức door to door, DN nước ngoài phải chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa đến Việt Nam, làm thủ tục hải quan, nộp thuế và giao hàng cho người NK Việt Nam.

Tham khảo kinh nghiệm của các nước thì trong trường hợp này, chủ hàng nước ngoài phải thông qua đại lý khai thuê tại Việt Nam để thực hiện thủ tục hải quan và thủ tục với các cơ quan liên quan để thông quan hàng hóa. Việc quy định phải sử dụng đại lý trong trường hợp này đảm bảo yêu cầu quản lý của cơ quan Hải quan như thu thuế, yêu cầu cung cấp hồ sơ, hàng hóa để kiểm tra…

Bên cạnh đó, đối với trường hợp DN cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế, theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Bưu chính 2012 thì “DN cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế được thay mặt người sử dụng dịch vụ bưu chính thực hiện các thủ tục XK, NK bưu gửi khi là đại diện hợp pháp của người sử dụng dịch vụ bưu chính”. Theo quy định nêu trên có thể hiểu là phải có văn bản ủy quyền thì DN cung ứng dịch vụ bưu chính mới là người đại diện hợp pháp.

Trong khi đó, quy định tại Nghị định số 154 thì người khai hải quan bao gồm DN cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế (không cần ủy quyền của chủ hàng hóa).

Qua quá trình thực hiện cho thấy, việc quy định như tại Nghị định số 154 tuy đã tạo điều kiện thuận lợi cho DN cung ứng và người sử dụng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế. Tuy nhiên, sẽ phát sinh vướng mắc đối với trường hợp chủ hàng hóa (người sử dụng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh) không có yêu cầu DN cung ứng dịch vụ thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK.

Trên thực tế, các hãng chuyển phát nhanh thường phân loại đối tượng để thực hiện thủ tục hải quan: những lô hàng là chứng từ, tài liệu hoặc có trị giá thấp, không thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành thì các hãng chuyển phát nhanh thực hiện thủ tục ngay, không cần liên hệ với khách hàng xem có đồng ý hay không.

Trường hợp lô hàng trị giá cao hoặc hàng hóa của tổ chức, DN thì các hãng chuyển phát nhanh liên hệ trước, nếu khách hàng đồng ý thì mới thực hiện thủ tục hải quan. Nếu khách hàng không đồng ý thì DN chuyển phát nhanh không làm thủ tục thay cho khách hàng.

Do vậy, để khắc phục bất cập trên, Nghị định 08/2015/NĐ-CP đã quy định: DN cung ứng dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trừ trường hợp chủ hàng có yêu cầu khác là người khai hải quan.

Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, tại dự thảo Nghị định đã quy định về người khai hải quan bao gồm cả thương nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam, cụ thể:“Trường hợp chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam thì phải ủy quyền cho đại lý làm thủ tục hải quan”.

Miễn phí lưu kho/ bãi trong thời gian nghỉ Tết

Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn vừa thông báo kế hoạch làm hàng trong dịp Tết nguyên Đán Ất Mùi 2015 thời gian từ 16 đến ngày 23-2-2015
Theo Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, trong thời gian nghỉ nêu trên, đơn vị vẫn tiếp nhận tàu, xếp dỡ hàng hóa XNK, hạ bãi container hàng xuất, giao container hàng nhập và nâng/ hạ container rỗng như bình thường. Đối với các dịch vụ khác, cảng thực hiện theo quy định chung của Nhà nước về chế độ nghỉ lễ.

Đặc biệt, trong thời gian nghỉ Tết, Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn sẽ thực hiện miễn phí lưu kho/ bãi cho khách hàng.

Trong trường hợp đặc biệt cần phải làm hàng trong thời gian nghỉ Tết, hãng tàu, doanh nghiệp thông báo cho cảng trước ngày 11-2-2015, cảng sẽ xem xét có kế hoạch giải quyết cho từng trường hợp cụ thể

Để tránh tình trạng ùn ứ hàng hóa tại cảng Cát Lái sau kỳ nghỉ lễ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của cảng, hãng tàu và doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn đề nghị doanh nghiệp tích cực sử dụng các dịch vụ cung cấp bình thường trong thời gian nghỉ Tết.

Thị trường chuyển phát: Doanh nghiệp nội “len lỏi” tìm lợi thế

Thị trường chuyển phát nhanh đang có một đợt sóng ngầm. Một số DN có tên tuổi trong nước như Hợp Nhất, ViettelPost và VNPost… vẫn trụ được với mảng dịch vụ chuyển phát nhanh tài liệu, hàng hóa, bưu kiện có khối lượng nhỏ. Tuy nhiên, các tập đoàn nước ngoài cũng đang nhắm vào VN.

Lần lượt nhảy vào thị trường Việt Nam theo hình thức hợp tác với DN trong nước nhưng nhờ tiềm lực tài chính mạnh nên bốn tên tuổi lớn gồm DHL (Đức), TNT (Hà Lan), FedEx và UPS (Mỹ) đã nhanh chóng chiếm lĩnh mảng dịch vụ chuyển phát nhanh tại thị trường Việt Nam. Sau khi không còn các đối thủ nội địa, các DN nước ngoài này chuyển sang giai đoạn chiếm lĩnh thị phần và tính đến phương án tách khỏi mô hình liên doanh để trở thành những DN 100% vốn nước ngoài.

Âm thầm biến đổi

Trong một thời gian ngắn, những tập đoàn nước ngoài DHL, TNT, FedEx và UPS đã định hình được bản đồ thị trường chuyển vận tại Việt Nam.

Mới đây, đại hội cổ đông bất thường của Cty CP Chuyển phát nhanh Tín Thành (TTC Express) cũng đã thông qua phương án chuyển nhượng 70% cổ phần của các cổ đông lớn cho 3 nhà đầu tư gồm: Cty TNHH MTV Dịch vụ Gia Lý, Cty KLN (Singapore) PTE.LTD và Cty CP Kerry Intergrated Logistics (Hồng Kông). Như vậy, sau 13 năm hoạt động trong lĩnh vực chuyển phát nhanh, Tín Thành đã có thương hiệu mới là Kerry TTC Express, chính thức trở thành một trong những DN chuyển phát có vốn đầu tư nước ngoài.

Cuối năm 2013, UPS mua lại 49% cổ phần của VNPost Express và trở thành hãng chuyển phát nhanh đầu tiên sở hữu 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, mở đầu cho những kế hoạch tách khỏi các liên doanh hiện hữu của các hãng chuyển phát nhanh khác. Dự báo, nhiều khả năng thời gian tới các hãng chuyển phát nhanh toàn cầu sẽ tính đến phương án tách khỏi liên doanh để trở thành những DN 100% vốn nước ngoài để hoạt động tại VN.

Thương mại điện tử – lợi thế của doanh nghiệp nội

Sự phát triển mạnh mẽ của mua sắm online, kênh bán hàng trực tuyến đang mở ra cơ hội lớn cho các DN chuyển phát.

Tuy vậy, DN nội không phải không có “cửa”. Kinh doanh thương mại điện tử đang mở ra những cơ hội “vàng” cho DN chuyển phát. Đón bắt xu hướng này, hàng loạt các DN chuyển phát đã không tiếc tiền “chi” mạnh cho công nghệ để gia tăng sức cạnh tranh. Ông lớn hiện đang nắm thị phần lớn nhất với 37% – VNPost đã không bỏ qua cơ hội đầy tiềm năng này. Tận dụng lợi thế từ mạng lưới rộng khắp, VNPost đã tập trung đầu tư các nguồn lực để phục vụ riêng cho thương mại điện tử (TMĐT) như đào tạo lại đội ngũ 18.000 bưu tá; chuẩn hoá và thiết kế lại dịch vụ; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ nhu cầu định vị hành trình và quản lý đơn hàng của TMĐT….
DN đang chiếm đến 15,280% thị phần là DHL-VNPT mới đây cũng đã rót thêm 10 triệu USD để mở rộng thị trường. Khoản đầu tư này giúp cho DHL-VNPT đặt ra kỳ vọng sẽ chuyển hàng nhanh hơn để gia tăng thêm thị phần.

Đứng ở vị trí thứ ba với 10,08% thị phần, có mạng lưới thu phát phủ đến 95% huyện, xã tại 63 tỉnh thành, Viettel Post cũng không thể bỏ qua sức hút từ TMĐT. Được biết, hiện ViettelPost đang đầu tư thử nghiệm 500 máy quét mã vạch không dây (PDA) cho nhân viên và thiết bị quản lý phương tiện vận tải GPS để kiểm soát chất lượng vận chuyển, giúp tiết kiệm khoảng 10% chi phí xăng dầu.

Thị trường chuyển phát hiện nay được chia ra làm ba nhóm chính, gồm các DN chuyên cung cấp dịch vụ bưu chính phát triển thêm mảng chuyển hàng TMĐT như VNPost và ViettelPost có lợi thế về quy mô rộng khắp nhưng với nhược điểm là dịch vụ đại trà, chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát hàng của TMĐT. Nhóm thứ hai là DN chuyên logistics phát triển sang mảng phát hàng TMĐT, điển hình như DHL-VNPT dù có lợi thế đầu tư công nghệ tốt, có kho hàng nhưng nhược điểm là quy mô mạng lưới chỉ đến đầu tỉnh, thiết kế dịch vụ chưa có nhiều… Nhóm thứ ba là DN được thành lập chuyên phục vụ nhu cầu chuyển phát hàng TMĐT, nhóm này có lợi thế là thiết kế dịch vụ tốt, định vị phân khúc rõ ràng và đầu tư công nghệ mạnh, song hạn chế là quy mô mạng lưới lại chủ yếu nằm ở thành thị.

Theo Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của mua sắm online, kênh bán hàng trực tuyến đang mở ra cơ hội lớn cho các DN chuyển phát.

Bộ trưởng Giao thông: ‘Năm 2015 sẽ không còn xe quá tải’

“Không có lý do gì hay chỉ vì một số nhóm người mà mục tiêu chúng ta không làm được”, Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng nêu quyết tâm xoá nạn xe quá tải vào năm sau.
Tại hội nghị trực tuyến về kiểm soát tải trọng xe ngày 24/12, nhiều ý kiến cho rằng, tình trạng xe quá tải vẫn chưa thể xử lý dứt điểm do một số doanh nghiệp vận tải, chủ hàng, lái xe còn chạy theo lợi nhuận. Họ tự ý cải tạo cơi nới thùng xe để chở hàng quá tải, tình trạng xe tải dừng đỗ tại hai đầu trạm cân lợi dụng thời cơ chờ vượt trạm vẫn còn diễn ra, không chấp hành việc dừng xe kiểm soát, chống đối lực lượng thực thi nhiệm vụ. Cá biệt, có hiện tượng móc nối, bảo kê xe quá tải, “cò”, môi giới dẫn xe hoạt động xung quanh trạm cân lưu động…

Có đại biểu dẫn chứng, tại Hà Tĩnh, đứng trước khu công nghiệp Vũng Áng và quốc lộ 12 là có thể thấy ngay cảnh xe quá tải nối đuôi nhau mà không ai xử phạt. Trước phản ánh trên, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã thẳng thắn phê bình lãnh đạo Sở giao thông tỉnh Hà Tĩnh và yêu cầu cũng nên ra đường để thực tế, chặn, xử phạt xe quá tải.

Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam Nguyễn Văn Thanh nhận xét, sự phối hợp liên ngành giữa các địa phương chưa chặt chẽ. Có đoàn xe quá tải đi ra phía Bắc không phạt, nhưng trong phía Nam lại phạt nên gây hoang mang cho doanh nghiệp…. Ông Thanh kiến nghị, nhà nước có chế tài xử lý liên quan đến chủ hàng, và nâng cao mức phạt hơn nữa.

Theo Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, lãnh đạo địa phương phải trực tiếp ra đường chỉ đạo xử lý xe quá tải với các vụ việc phức tạp để tìm ra nguyên nhân và trách nhiệm giải quyết của từng đơn vị.

Liên quan đến vấn đề xử phạt, Thứ trưởng yêu cầu Bộ GTVT và Bộ Công an phải làm rõ thế nào thì phạt cho đi, buộc về nơi xuất phát hạ tải, tạm đình chỉ, tạm giữ phương tiện…

Đề cập đến vấn đề này, Bộ trưởng Đinh La Thăng đề nghị các địa phương không xây dựng bãi hạ tải mà yêu cầu xe quay lại điểm xuất phát.

“Năm 2015 sẽ không còn xe quá tải. Không có lý do gì hay chỉ vì một số nhóm người mà mục tiêu chúng ta không làm được, trong khi nhiều mục tiêu khó hơn chúng ta đều đã làm,” Bộ trưởng Đinh La Thăng khẳng định

Cảng Quy Nhơn đón tấn hàng thứ 7 triệu trong năm 2014

12/22/2014 10:02:02 AM

Ngày 20/12, Công ty Cổ phần Cảng Quy Nhơn (Tổng công ty Hàng hải Việt Nam) đã tổ chức lễ đón nhận tấn hàng thứ 7 triệu tấn năm 2014.

Ông Nguyễn Hữu Phúc, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cảng Quy Nhơn cho biết, năm 2014, tổng sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Quy Nhơn đạt trên 7,1 triệu tấn, tăng 13,5% so với năm 2013 và tăng 8% so với kế hoạch năm 2014 trong đó hàng hoá xuất khẩu tăng 11,5%; hàng nhập khẩu tăng 14,7% và hàng nội dịa tăng 13,7%; sản lượng hàng container đạt 85.000 teus, tăng 40% so với cùng kỳ 2013 nhanh và tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng bến. Trong đó hiệu quả khai thác cầu bến của Cảng đạt 8.500 tấn/mét cầu là một trong số ít cảng biển ở trong nước thực hiện được. Nhờ vậy, năm 2015 tổng doanh thu đạt trên 500 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, lợi nhuận trước thuế đạt 45 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước trên 30,5 tỷ đồng và thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên đạt 16 triệu đồng/tháng.

Lãnh đạo Công ty Sản xuất dăm gỗ Bình Định chia sẻ, là một khách hàng lớn của Cảng Quy Nhơn, liên tục trong nhiều năm xuất khẩu dăm gỗ tại cảng này, Công ty rất hài lòng với trách nhiệm và ý thức cao của lãnh đạo và công nhân cảng Quy Nhơn đã tạo mọi diều kiện về bến bãi và bốc xếp hàng xuất khẩu dăm gỗ thuận tiện, kịp thời theo đúng cam kết hợp đồng.

Năm 2015, Cảng Quy Nhơn phấn đấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua cảng đạt 8 triệu tấn/năm đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, Cảng Quy Nhơn đã quy hoạch chi tiết mở rộng cảng trong giai đoạn 2020-2030 đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh phê duyệt vào tháng 9/2014 để phấn đấu đến năm 2020 đạt tổng sản lượng hàng hoá từ 15-18 triệu tấn/năm và đến năm 2030 đạt từ 25-30 triệu tấn/năm.

Đơn vị ổn định thị trường hiện có và mở rộng phạm vi khai thác để thu hút các ngành hàng mới từ khu vực Tây Nguyên, Nam Lào và Đông Bắc Campuchia, tạo thế và lực để Cảng Quy Nhơn tiếp tục là một trong những đơn vị khai thác cảng biển dẫn đầu trong hệ thống cảng biển của cả nước./.

Theo VIETNAM+

TPL Shipping JSC: 5 năm chinh phục thị trường vận tải biển quốc tế

Công ty Cổ phần Thương Mại Vận Tải Biển Trường Phát Lộc (TPL Shipping JSC) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 5 năm thành lập “Diện mạo mới – Tầm nhìn mới”.

Trong bối cảnh ngành vận tải biển quốc tế đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, TPL Shipping JSC đã từng bước vượt qua khó khăn và đạt được những thành tựu nổi bật, nhất là trong năm 2014. Ước tính đến cuối năm nay, doanh thu của TPL Shipping JSC đạt khoảng 684 tỷ đồng, lợi nhuận khoảng 100 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Văn Đạt – Cố vấn chiến lược của HĐQT TPL Shipping phát biểu  về những thách thức và thành công của công ty sau 5 năm đi vào hoạt động – Ảnh: Phó Bá Cường

Như vậy, với định hướng và kế hoạch kinh doanh bài bản cùng bề dày kinh nghiệm hoạt động trong ngành vận tải biển, TPL Shipping JSC đang hướng đến mục tiêu gia nhập vào hàng ngũ những doanh nghiệp vận tải khí hoá lỏng, hoá chất quốc tế, cạnh tranh trực tiếp với các tên tuổi lớn trong ngành vận tải biển quốc tế. Để thực hiện mục tiêu đó, từ nay đến 2017, dự kiến TPL Shippping JSC sẽ nâng đội tàu lên 15 chiếc với tổng trọng tải hơn 240.000 tấn tàu hoá chất và tổng dung tích gần 150.000 mét khối khí hoá lỏng.

 Đại diện lãnh đạo TPL Shipping tặng hoa cho đối tác – Ảnh: Phó Bá Cường

TPL Shipping JSC là doanh nghiệp vận tải biển quốc tế thành lập vào tháng 12/2009 thuộc sở hữu của gia đình ông Nguyễn Văn Đạt – CT HĐQT Công ty CP Phát triển Bất động sản Phát Đạt. Khởi đầu, TPL Shipping JSC chỉ quản lý một tàu dầu/hoá chất DONG A STAR có trọng tải 8.386 tấn, chuyên vận tải dầu sản phẩm hoạt động trong khu vực nội địa Việt Nam và Đông Nam Á. Sau đó, TPL Shipping JSC đã táo bạo đầu tư đội tàu hoá chất chuyên dụng mới có trọng tải lớn, hầm hàng thép không rỉ đặc trưng có thể chở hàng trăm loại hoá chất khác nhau trên các tuyến quốc tế. Từ đó TPL Shipping JSC đã trở thành doanh nghiệp Việt Nam tiên phong trong việc vận chuyển hoá chất, khí hoá lỏng trên hải trình quốc tế.


Rượu champagne và pháo hoa chúc mừng TPL Shipping tuổi lên 5 – Ảnh Phó Bá Cường

 

Cục Hải quan BR-VT: Kỷ niệm 35 năm thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

(Vietnam Logistics Review) Ngày 4-12, tại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập, Cục Hải quan BR-VT đã vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì của Chủ tịch nước trao tặng. Đến dự có các ông: Nguyễn Tuấn Minh, Ủy viên TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Tài chính; Trần Thanh Bình, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh; Hồ Văn Niên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Ông Trần Văn Danh, Cục trưởng Cục Hải quan BR-VT cho biết: Được thành lập ngày 4-12-1979, trải qua chặng đường 35 năm, các thế hệ cán bộ công chức Chi cục Hải quan Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo nay là Cục Hải quan BR-VT đã khắc phục những khó khăn, thử thách, để hoàn thành nhiệm vụ quản lý Nhà nước về hải quan trên địa bàn tỉnh BR-VT. Trong những năm gần đây, Cục Hải quan đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và hiện đại hóa, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào quy trình nghiệp vụ, nâng cao năng lực chuyên môn, tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp của cộng đồng DN trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và đầu tư. Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước, Cục Hải quan BR-VT thường xuyên đứng hàng thứ ba trong toàn ngành, luôn hoàn thành vượt chỉ tiêu được giao hàng năm. Riêng năm 2014, đến thời điểm này đã hoàn thành 100% chỉ tiêu được giao với số thu 21.500 tỷ đồng, phấn đấu đến cuối năm thu vượt 10% dự toán cả năm.

Thay mặt lãnh đạo tỉnh, ông Hồ Văn Niên ghi nhận và biểu dương thành tích Cục Hải quan BR-VT đạt được trong 35 năm qua, góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh; Yêu cầu Cục Hải quan chú trọng đoàn kết nội bộ, xây dựng hình ảnh đẹp và thân thiện của cán bộ công chức hải quan trong mắt người dân và cộng đồng DN; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý Nhà nước về hải quan, tạo điều kiện cho DN hoạt động XNK và dịch vụ logistics theo định hướng xây dựng tỉnh BR-VT trở thành địa phương có thế mạnh về kinh tế cảng biển đến năm 2015 và những năm tiếp theo.

Gần 1,3 triệu cổ phần của Đạm Cà Mau sẽ tham gia IPO

(Vietnam Logistics Review) Vào ngày 11/12, Công ty TNHH MTV Phân bón dầu khí Cà Mau (PVCFC) sẽ bán 128.951.300 cổ phần lần đầu ra công chứng (IPO) tại sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.

Với số vốn điều lệ 5.294 tỷ đồng và công nghệ sản xuất áp dụng cho Nhà máy Đạm Cà Mau đều là các công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất hiện nay. Hầu hết các thiết bị chính, quan trọng đều có xuất xứ từ EU/G7. Các tiêu chuẩn áp dụng choNhà máy là các tiêu chuẩn Quốc tế (ASME, API, JIS…).

Sản phẩm chính của PVCFC, Đạm Cà Mau-Hạt Ngọc Mùa Vàng là thương hiệu phân đạm hạt đục chất lượng cao Việt Nam (TCVN 2619) với nhiều tính năng nổi trội như phân giải nitơ chậm, giúp cây trồng hấp thu dinh dưỡng hiệu quả, làm cho cây xanh bền và tiết kiệm phân bón, cỡ hạt đồng đều, không mạt nên dễ rải và dễ phối trộn…

Chỉ trong hơn một năm qua, sản phẩm Đạm Cà Mau đã phủ kín khu vực ĐBSCL đồng thời phát triển rộng ra các thị trường Đông Nam Bộ và Campuchia, trở thành sự lựa chọn tin cậy của đông đảo bà con nông dân. Riêng 9 tháng đầu năm 2014, PVCFC đã đưa ra thị trường hơn 590.000 tấn, doanh thu đạt 4.282 tỷ đồng.

Số cổ phần được chào tại IPO lần này tương đương 24,36% vốn điều lệ của công ty sẽ được bán với giá khởi điểm 12.000 đồng/cổ phần. Theo đó, số lượng cổ phần tối đa một tổ chức hay một cá nhân được đăng ký mua là 128.951.300 cổ phần và số lượng cổ phần đăng ký mua tối thiểu 100 cổ phần.

Phương thức đấu giá theo mô hình đấu giá hai cấp tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM. Theo đó, đối tượng tham gia gồm các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đáp ứng điều kiện theo quy định của Quy chế bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng của PVCFC và phải đặt cọc 10% giá trị tổng số cổ phần đăng ký mua tính theo giá khởi điểm PVCFC. công chúng (IPO) tại sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.

Thị trường EU: Kỳ vọng sau FTA

(Vietnam Logistics Review) Với việc VN – EU ra Tuyên bố chung về định hướng kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do VN – EU sẽ mở ra cơ hội lớn cho các DN VN thâm nhập và đứng vững ở thị trường đầy tiềm năng này trong tương lai rất gần.

TỪ TIỀM NĂNG EU

 

   

Khối EU có 27 nước với diện tích khoảng 4 triệu km2 và gần 500 triệu dân, tuy nhiên đây là thị trường lớn, tiềm năng cho tất cả các quốc gia, trong đó có VN. Thống kê cho thấy, GDP của khối đạt gần 14.960 tỷ USD, chiếm 27% thế giới. Tổng kim ngạch XNK đạt khoảng 2.800 tỷ USD, chiếm gần 25% giá trị thương mại toàn cầu. Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng kim ngạch mậu dịch đạt 5.092 tỷ chiếm 45% thị phần thế giới. EU cũng là khối đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ chiếm 43,8% thị phần thế giới và chiếm 42,7% nhập khẩu dịch vụ thế giới. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu và nhận 20% đầu tư từ bên ngoài.

Theo ông Bùi Vương Anh – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu, Tham tán thương mại VN tại Italia thì EU là một trong những đối tác thương mại chủ chốt, đồng thời là nguồn đầu tư quan trọng vào VN. Tổng kim ngạch trao đổi thương mại VN – EU tăng trưởng không ngừng trong thời gian qua. Chỉ tính riêng năm 2013, trao đổi này đã lên đến 26,6 tỷ Euro, trong đó VN xuất sang EU là 21,3 tỷ Euro, và nhập từ EU 5,3 tỷ Euro. Đến cuối năm 2013, EU đã có 1.402 dự án đầu tư trực tiếp vào VN còn hiệu lực, với tổng số vốn lũy kế đăng ký là 18.024 tỷ USD. Số vốn FDI cam kết của EU tại VN là 656 triệu USD, đứng thứ 6 trong danh sách các đối tác đầu tư nước ngoài vào VN.

Mặc dù có chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, một số nước trong EU gặp khó khăn về tài chính, tuy nhiên xét về tổng thể kinh tế thương mại của khối này vẫn giữ ổn định. Quan hệ  thương mại với VN vẫn tiếp tục phát triển. Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, trong vòng 12 năm từ 2001-2013, kim ngạch quan hệ thương mại VN – EU đã tăng hơn 7 lần, từ mức 4,5 tỷ USD năm 2001 lên 33,7 tỷ USD năm 2013. Trong đó xuất khẩu của VN vào EU tăng 8 lần và nhập khẩu của VN từ EU tăng
6,2 lần.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, thị trường XNK hàng hóa giữa hai bên mang tính bổ sung nhiều hơn là cạnh
tranh. Bởi lẽ, VN nhập khẩu chủ yếu các nhóm hàng máy móc thiết bị, sắt thép, nguyên phụ liệu sản xuất như dệt may, da, hóa chất, phân bón và các sản phẩm hoá chất, dược phẩm.

Ngược lại, EU nhập khẩu từ VN các sản phẩm tiêu dùng như hàng dệt may, giày dép các loại, hải sản, máy vi tính, điện thoại và linh kiện cũng như nhiều mặt hàng thủ công, nông sản như cà phê, hạt điều, hạt tiêu, sản phẩm gỗ và sản phẩm từ
chất dẻo.

ĐẾN CƠ HỘi FTA

Công bằng mà nói, cả một thời gian dài, quan hệ VN – EU mang tính quan hệ hỗ trợ nhiều hơn với việc EU đơn phương dành ưu đãi thuế quan cho VN và có thể loại bỏ ưu đãi này theo quy chế riêng mà không cần tham vấn với VN. Thế nhưng nếu FTA được ký thì quan hệ này đã chuyển lên một bước mới bình đẳng, công bằng hơn trong các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư.

Ông Tạ Hoàng Linh – Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương cho biết, hiện chỉ có khoảng 42% mặt hàng của VN được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU. Việc ký kết thành công FTA với EU, sẽ có ít nhất 90% mặt hàng VN xuất khẩu sang EU được hưởng mức thuế 0%. Đây là cơ hội lớn cho các DN VN tham gia xuất khẩu sang thị trường EU.

Bà Maylis Labayle, Giám đốc Chính sách phát triển của Phòng Thương mại châu Âu tại VN (EUROCHAM) chia sẻ: “Nếu được ký kết, Hiệp định Thương mại tự do (FTA) VN – EU sẽ giúp GDP của VN tăng 15%. FTA sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của VN xuất khẩu sang EU nhiều hơn. Dự tính, hiệp định này sẽ giúp xuất khẩu của VN sang EU tăng 30-40% và nhập khẩu của VN từ thị trường này tăng 25-35%”.

Còn ông Martin Buckle, chuyên gia tư vấn của Tổ chức Hỗ trợ Nhập khẩu từ các nước đang phát triển cho biết, giữa các nước trong khối EU đều có thuế quan giống nhau và các tiêu chuẩn chất lượng được áp dụng như nhau. Do đó, khi VN đã hoàn tất thủ tục yêu cầu xuất khẩu sang một quốc gia nào của EU cũng có thể xuất khẩu sang 27 quốc gia khác thuộc khối này.

Ngoài lợi ích gia tăng xuất khẩu, Hiệp định FTA VN – EU sẽ giúp DN VN mở rộng quy mô sản xuất và thu hút đầu tư từ EU, đồng thời sẽ nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế, tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy đàm phán Hiệp định FTA ASEAN – EU và ký kết Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, không phải không có những thách thức đối với các DN, vì thị trường EU đòi hỏi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phải có chất lượng cao chứ không phải lợi thế về giá. Mặt khác các sản phẩm còn phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn khắt khe về môi trường, sự an toàn… Ngoài ra các DN xuất khẩu vào EU đều phải tuân thủ tính minh bạch, cũng như những chính sách bảo hộ nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Trong khi đó đa số các DN VN vẫn còn loay hoay với chất lượng thương hiệu, chiến lược quảng bá, sự cạnh tranh với nhiều quốc gia khác.

Theo ông Linh, để tận dụng cơ hội từ FTA VN – EU, ngay từ bây giờ các DN VN phải nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đầu tư cải tiến công nghệ, năng lực quản lý, nhân sự, sản xuất sản phẩm phải tuân theo các quy định tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật của thị trường; xây dựng và tham gia các chuỗi cung ứng hiện đại. Có như vậy mới tận dụng được cơ hội xuất khẩu ngay sau khi kết thúc đàm phán.