Dự án sân bay Long Thành: Tháo gỡ điểm ngẽn đẩy nhanh tiến độ

Ngày 19.6.2017, với 82,08% số phiếu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc tách nội dung thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành thành Dự án thành phần. Đây là cơ sở nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án, đặc biệt trong bối cảnh sân bay Tân Sơn Nhất đang quá tải.

Sẽ lãng phí nếu chậm trễ

Báo cáo tại Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trương Quang Nghĩa cho biết, dự án có quy mô đầu tư đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 05 triệu tấn hàng hóa/năm. Tổng mức đầu tư là 336.630 tỷ đồng được thực hiện theo 3 giai đoạn, dự kiến đưa vào khai thác từ năm 2025. Tổng diện tích đất thu hồi 5.614,65 ha.

Theo giải trình, nếu đợi phê duyệt báo cáo khả thi (dự kiến vào năm 2019), tiến độ dự án sẽ chậm 3 năm, chưa kể chi phí sẽ tăng thêm do giá đất tăng; đời sống của người dân và hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp vùng dự án gặp nhiều khó khăn do quyền sử dụng đất bị hạn chế; hạ tầng vật chất kỹ thuật không được đầu tư. Vì vậy, Chính phủ xin tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (TĐC) của Dự án thành dự án thành phần để thực hiện độc lập, song song với Báo cáo nghiên cứu khả thi.

Thảo luận chiều ngày 1.6, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và nhiều đại biểu cho rằng việc tách dự án là cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hội nhập. Nếu để càng lâu sẽ ảnh hưởng và có nhiều hệ lụy. “Theo dự toán lúc đầu toàn bộ dự án là 12 nghìn tỷ đồng, nhưng khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư con số đã là 18 nghìn tỷ và đến nay là hơn 23 nghìn tỷ, đương nhiên có phần bổ sung 600 ha đất để phục vụ TĐC”, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu.

Ông Cao Đình Thưởng (Phú Thọ) cho rằng, Quốc hội cần ủng hộ Chính phủ, nếu chậm 1 năm không làm, chi phí sẽ tăng thêm 30%, lãng phí cơ hội. Do đó, nhanh được tháng nào sẽ tăng được lợi ích được ngần ấy. Quan trọng hơn là để thúc đẩy kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập vì thực trạng sân bay của Việt Nam chỉ như sân bay xóm, sân bay xã.

Cùng quan điểm này, ông Nguyễn Hồng Hải (Bình Thuận) cho rằng hiện khu vực phía Nam, có tốc độ tăng trưởng kinh tế dẫn đầu cả nước tuy nhiên sân bay Tân Sơn Nhất đã quá tải. Tình trạng chậm chuyến, bay lòng vòng trong giờ cao điểm ngày càng tăng lên gây thiệt hại kinh tế lớn và an ninh hàng không. Năm 2016, sân bay đón 32 triệu hành khách. Nếu có mở rộng cũng sẽ đầy tải không đáp ứng được nhu cầu vận tải hành khách cũng như hàng hóa trong tương lai gần. Trong khi đó các sân bay nước như Malaysia, Singapore đã có thiết kế đón 100 – 130 triệu hành khách/năm.

Dự án có quy mô đầu tư đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 05 triệu tấn hàng hóa/năm. Tổng mức đầu tư là 336.630 tỷ đồng được thực hiện theo 3 giai đoạn, dự kiến đưa vào khai thác từ năm 2025. Tổng diện tích đất thu hồi 5.614,65 ha.

Băn khoăn về nguồn vốn

Hầu hết các đại biểu đều nhất trí về sự cần thiết phải tách nội dung bồi thường, hỗ trợ tái định cư thành dự án thành phần thực hiện độc lập để đẩy nhanh tiến độ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng mong muốn của những người dân trong vùng dự án, đồng thời tránh lãng phí nguồn lực do đội vốn, cũng như nhiều cơ hội khác tuy nhiên họ cũng còn nhiều băn khoăn về nguồn vốn thực hiện.

Theo dự toán chi phí cho dự án thành phần là 23.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến nay mới có 5.000 tỷ vốn đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 – 2020, số còn lại sẽ lấy ở đâu ra? Ông Nguyễn Hồng Hải (Bình Thuận) đề nghị Chính phủ cần chỉ rõ cơ cấu nguồn tiền lấy ở đâu khi dự án này không thể sử dụng vốn ODA hay xã hội hóa. Mặt khác, khi có quyết định thu hồi đất phải trả tiền cho dân ngay. Nếu để lâu, dân không đồng ý sẽ rất phức tạp.

Để giải quyết vấn đề về vốn, ông Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cho rằng, theo giải trình của Chính phủ, ngoài 5.000 tỷ vốn có thể thu thêm 4.000 tỷ từ tiền thu hồi đất, thu tiền sử dụng đất của phần dự án tái định cư và thu được khoảng 1.000 tỷ là tiền thuê mặt bằng thương mại, dịch vụ và 500 tỷ đồng từ việc cho thuê diện tích đất giải phóng xong chưa dùng đến. Mặt khác có thể huy động nguồn từ việc chuyển nhượng đất trên cơ sở quy hoạch các khu đô thị lân cận.

Còn ông Phạm Minh Chính (Quảng Ninh) lại đề xuất Chính phủ nghiên cứu trình Quốc hội cho cơ chế đặc thù và tăng cường tiết kiệm chi thường xuyên trên phạm vi cả nước trên cơ sở giảm đầu tư mối và giảm biên chế theo tinh thần nghị quyết 39 của Bộ Chính trị. Chỉ cần tiết kiệm 1%/năm có thể tiết kiệm được trên 10.000 tỷ đồng.

Cùng quan điểm này, ông Vũ Trọng Kim (Hải Dương) cho rằng nên ủng hộ Chính phủ kiến tạo. Việc đầu tư có thể tăng nợ công quốc gia nhưng cần có quan điểm mới về trần nợ công theo hướng mở. Chúng ta xây dựng và phát triển thì chúng ta cần vốn nhiều hơn. Vấn đề là phải giám sát, quản lý chặt chẽ, công khai minh bạch, chống lợi ích nhóm, sử dụng vốn hiệu quả. “Đề nghị Chính phủ phải có gan, có gan mới có thể làm giàu, mạnh dạn trình ra cho Quốc hội một cách thức thu hồi vốn và trả nợ vay để tránh tâm lý nặng nề hiện nay nợ công cao, cho nên không dám làm gì”, ông Kim nhấn mạnh.

Một số đại biểu cũng đưa ra giải pháp khác như nguồn dự phòng đầu tư công trung hạn với điều kiện Chính phủ phải có phương án rõ ràng, hiệu quả và cam kết đảm bảo kế hoạch thu, không phá vỡ kế hoạch vốn đầu tư trung hạn.

Câu chuyện tầm nhìn

Xét về mặt trách nhiệm thì những băn khoăn trên không phải không có lý. Tuy nhiên, chúng ta cần một cái nhìn xa và rộng hơn vì sự phát triển bền vững của nước nhà. Theo ông Cao Đình Thưởng, nhớ lại thời điểm năm 1992, nếu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt không sáng suốt quyết định đầu tư đường dây 500kV mạch 1, có lẽ diện mạo đất nước, nhất là miền Nam chưa chắc đã như ngày hôm nay. Công trình đường dây 500kV Bắc – Nam lúc đó cũng là siêu dự án với vốn đầu tư là 5.500 tỷ đồng (tương đương 544 triệu USD). Khó khăn chồng chất từ ngân sách eo hẹp, điều kiện thi công xây dựng, các yếu tố kỹ thuật khác đến sự phản đối kịch liệt của một số nhà khoa học, nhân dân về tính khả thi, hiệu quả của dự án. Tuy nhiên, chỉ sau hơn hai năm thi công, dự án đã hoàn thành góp phần đưa khoảng 2 tỷ kWh từ miền Bắc vào miền Nam. Sau 3 năm vận hành, công trình đã hoàn vốn. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho tầm nhìn và quyết định đúng đắn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Trở lại câu chuyện đầu tư cảng hàng không quốc tế Long Thành là một ví dụ tương tự. Mặc dù đã có định hướng quy hoạch từ 2005 nhưng phải mất 10 năm sau, Quốc hội mới thông chủ trương đầu tư dự án. Theo kế hoạch phải đến 2025 mới bắt đầu tư đi vào vận hành khai thác giai đoạn 1 (nếu tiến độ dự án đảm bảo).

Theo báo cáo của Cục Hàng không, năm 2016, thị trường hành khách ngành hàng không đã tăng trưởng mạnh, ước đạt 52,2 triệu khách, tăng trên 29% so năm 2015. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,4 triệu tấn, trong đó vận chuyển nội địa đạt gần 1 triệu tấn. Hiện đã có 58 hãng hàng không tham gia thị trường Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, đội tàu bay của các hãng hàng không trong nước là hơn 150 chiếc.

Theo báo cáo của Cục Hàng không, năm 2016, thị trường hành khách ngành hàng không đã tăng trưởng mạnh, ước đạt 52,2 triệu khách, tăng trên 29% so năm 2015. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,4 triệu tấn, trong đó vận chuyển nội địa đạt gần 1 triệu tấn. Hiện đã có 58 hãng hàng không tham gia thị trường Việt Nam.

Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định song ngành vận tải hàng không vẫn còn nhiều tồn tại hạn chế khi chi phí quá cao, sức cạnh tranh còn yếu so với nhiều nước trong khu vực. Do đó, việc đẩy nhanh tiến độ cảng hàng không quốc tế Long Thành là sự cấp thiết. Hy vọng rằng từ nay cho đến kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ sẽ hoàn thiện xong báo cáo khả thi trình Quốc hội thông qua nhằm bắt tay ngay vào công việc, có như vậy mới đạt được mục tiêu đề ra.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Logistics Việt: Khó ‘nâng hạng’ vì nhiều rào cản

Nhiều điều kiện kinh doanh đang trói buộc doanh nghiệp logistics phát triển…

Nhiều điều kiện kinh doanh đang trói buộc doanh nghiệp logistics phát triển…Logistics Viet: Kho 'nang hang' vi nhieu rao can - Anh 1

Việc ngành dịch vụ logistics tìm cách giảm chi phí gặp phải nhiều rào cản.

Đặng Hương

Theo Luật Đầu tư 2014, kinh doanh dịch vụ logistics được xếp vào nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhằm tạo ra khung khổ pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước quản lý một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên đến thời điểm này, nhiều điều kiện kinh doanh vẫn đang trói buộc doanh nghiệp phát triển, không đúng với tinh thần của Quyết định 200 mà Chính phủ ban hành.

Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp logistics Việt Nam đã chia sẻ với Thời báo Kinh tế Việt Nam và VnEconomy về vấn đề này.

Thưa ông, đã có nhiều ý kiến cho rằng, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics đang là những rào cản khiến chi phí logistics không có sự cải thiện theo hướng hỗ trợ cho doanh nghiệp. Ông có suy nghĩ như thế nào?

Mục tiêu của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong việc thực hiện Quyết định 200 về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025 vừa được ban hành ngày 14/2/2017 là giảm chi phí logistics, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Tuy nhiên, việc ngành dịch vụ logistics tìm cách giảm chi phí thì gặp phải các rào cản. Xin nêu một vài ví dụ như sau. Hải Phòng thu phí kết cấu hạ tầng cửa khẩu cảng biển quá cao từ tháng 1/2017 làm tăng chi phí và thời gian thực hiện dịch vụ logistics.

Hay như ngày 6/8/2014, Bộ Tài chính có ban hành Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 1/10/2014 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam (gọi tắt là “thuế nhà thầu”) với mức thu 1%.

Từ ngày Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực đã dẫn tới số lượng hàng hóa gửi tại kho ngoại quan phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu giảm tới khoảng 50%, ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực cạnh tranh của ngành logistics và các ngành xuất khẩu mũi nhọn khác như dệt may, da giầy và nhựa.

Hay như việc các nhà cung cấp  dịch vụ vận tải phải trả phí đường bộ và phí ngoài luồng quá cao cũng làm gia tăng chi phí logistics một cách đáng kể, vì chi phí vận tải hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng 60% chi phí logistics…

Thưa ông, với việc 75% thị phần dịch vụ logistics nằm trong tay doanh nghiệp nước ngoài, nhiều người cho rằng sẽ rất khó khăn trong việc cải thiện thứ hạng của ngành kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam?

Con số 75% thị phần dịch vụ logistics nằm trong tay doanh nghiệp nước ngoài là chưa có cơ sở thực tế và chưa có số liệu kiểm chứng. Hiện nay, phần logistics nội địa, bao gồm dịch vụ vận tải bộ (trucking), vận tải nội địa khác, kho bãi, cảng biển, đại lý hải quan… chủ yếu là do các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam thực hiện.

Nhiều công ty đã thực hiện các dịch vụ logistics tích hợp (3PL) như Transimex Saigon, Gemadept, Tân Cảng Saigon… đã cung cấp dịch vụ ngang ngửa với các công ty xuyên quốc gia đang cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam.

Vấn đề ở chỗ là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia nước ngoài ở Việt Nam hơn các công ty của chúng ta ở trình độ quản lý, năng lực tài chính, trình độ áp dụng ICT và năng lực nhân viên, đặc biệt là họ có thị trường có sự liên kết giữa các chủ hàng và hãng tàu.

Đó là khó khăn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics Việt Nam. Điều này đòi hỏi các công ty Việt Nam phải phấn đấu vươn lên qua hợp tác với nhau và hợp tác với nước ngoài nhằm mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ logistics để thực hiện các chỉ tiêu mà Quyết định 200 đã đề ra.

Để phát triển dịch vụ logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, theo ông, Việt Nam nên làm những gì?

Chúng ta cần thực hiện có kết quả Quyết định 200 của Thủ tướng Chính phủ, vì đó là chương trình hành động logistics quốc gia, thể hiện đầy đủ các nhiệm vụ nhằm phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay.

60 nhiệm vụ cụ thể của Quyết định 200 tập trung vào 4 yếu tố của hệ thống dịch vụ logistics Việt Nam. Đó là chính sách, luật lệ điều chỉnh ngành dịch vụ logistics.

Tiếp đến là kết cấu hạ tầng logistics (cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm trong đó có ICT và nguồn nhân lực chất lượng cao); các nhà sử dụng dịch vụ logistics (nhà sản xuất, nhà xuất nhập khẩu và nhà phân phối); và các nhà cung cấp dịch vụ logistics.

Hiện nay, việc cải thiện và nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước đối với ngành dịch vụ logistics và cải thiện kết cấu hạ tầng logistics của nước ta đóng một vai trò hết sức quan trọng.

Theo: Baomoi.com

Sắp có tuyến vận tải biển quốc tế Việt Nam – Singapore

Ngày 7.7, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn (TCT TCSG) đã tổ chức Lễ giới thiệu Tuyến vận tải biển quốc tế Việt Nam – Singapore. Tuyến vận tải mới này do Công ty cổ phần vận tải biển Tân Cảng (trực thuộc TCT TCSG) và Công ty cổ phần vận tải xếp dỡ Hải An cùng hợp tác khai thác, dự kiến bắt đầu triển khai từ tháng 8.2017.

Tham dự Lễ giới thiệu có ông Nguyễn Xuân Sang – Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam; ông Ngô Minh Thuấn – Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn; ông Vũ Ngọc Sơn – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần vận tải xếp dỡ Hải An; cùng đại diện các hãng tàu, khách hàng, đối tác và đại diện các đơn vị trực thuộc TCT TCSG.

Ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam chúc mừng sự hợp tác giữa hai đơn vị

Tại Lễ giới thiệu, ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng, Cục Hàng hải Việt Nam đánh giá cao sự hợp tác của 2 bên. Ông cho rằng, sự kiện mở tuyến vận tải biển quốc tế Việt Nam – Singapore có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành kinh tế biển của Việt Nam. Ông kỳ vọng, sẽ có nhiều kết quả tốt đẹp trong thời gian tới.

Ông Ngô Minh Thuấn, PTGĐ TCT TCSG giới thiệu về tuyến vận tải biển quốc tế Việt Nam – Singapore

Theo thỏa thuận hợp tác giữa Công ty cổ phần vận tải biển Tân Cảng và Công ty cổ phần vận tải xếp dỡ Hải An, hai bên bước đầu sẽ đưa 2 tàu trọng tải tương  đương nhau (707 – 787 TEU) cùng khai thác theo phương thức hợp doanh. Ngày 3.8.2017, tàu TAN CANG GLORY và tàu HAIAN PARK sẽ chính thức chạy tuyến Việt Nam – Singapore đầu tiên và sẽ duy trì hàng tuần theo lộ trình: Tân cảng 128/Hải An (Hải Phòng) – VICT (Hồ Chí Minh) – Cát Lái (Hồ Chí Minh) – Pasir Panjang (Singapore) – Cát Lái (Hồ Chí Minh) – VICT (Hồ Chí Minh) – Tân cảng 128/Hải An (Hải Phòng).

Ông Nguyễn Xuân Sang cùng lãnh đạo các đơn vị kỳ vọng vào kết quả của tuyến vận tải mới

Tuyến vận tải quốc tế Việt Nam – Singapore cùng những tuyến nội Á khác được kỳ vọng sẽ hỗ trợ các hãng tàu kết nối khu vực phía Bắc vào cảng Cái Mép và ngược lại. Đồng thời giúp các hãng tàu chủ động trong việc chuyển hàng từ Singapore, Malaysia về kết nối tàu mẹ tại cảng Cát Lái. Qua đó, từng bước phát triển ngành vận tải biển Việt Nam trên thị trường quốc tế. Sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trong chiến lược hợp tác phát triển kinh tế biển của TCT TCSG và Công ty cổ phần vận tải xếp dỡ Hải An.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Vận tải hàng hóa hàng không: Dưới tác động của “Bầu trời mở ASEAN”

“Bầu trời mở ASEAN” là hiệp định về tự do hóa vận tải hàng không trong khối ASEAN. Chính sách “Bầu trời mở ASEAN” nằm trong nỗ lực hình thành một thị trường hàng không thống nhất ASEAN (ASEAN Single Aviation 23 Market – ASAM) cùng với sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC).

Còn nhớ trong hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 vào ngày 13.01.2007 tại Cebu, các lãnh đạo thuộc các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết sẽ hình thành cộng đồng ASEAN đến năm 2015. Cộng đồng ASEAN bao gồm 3 cột trụ: kinh tế, an ninh và văn hoá – xã hội. Với niềm tin rằng một hệ thống vận tải hiệu quả, an toàn và thống nhất nội khối ASEAN sẽ đóng vai trò quan trọng để phát triển toàn diện tiềm năng của khu vực kinh tế thống nhất, nâng cao sức hấp dẫn của khu vực ASEAN như là một cơ sở sản xuất, điểm đến du lịch và đầu tư thống nhất, và rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các quốc gia thành viên.

12 lĩnh vực được ưu tiên hội nhập để tiến trình hội nhập được hiệu quả đã được nêu, trong đó có lĩnh vực hàng không (HK). Tháng 11.2004, tại Campuchia, các Bộ trưởng GTVT ASEAN đã thống nhất sẽ thực hiện lộ trình tự do hóa và hội nhập ASEAN về vận tải hàng không (VTHK). Với tinh thần nhất trí cao về xây dựng một thị trường HK ASEAN thống nhất vào năm 2015, các Bộ trưởng đã đồng ý ký kết các hiệp định này tại Hội nghị Bộ trưởng GTVT khu vực lần thứ 14 tại Manila vào ngày 06.11.2008. Trước đây, tự do hóa hoàn toàn dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách HK được dự kiến có hiệu lực từ tháng 12.2008, thực tiễn rằng giao thông HK chỉ được tự do hóa giữa các thủ đô và dành cho các hãng hàng không (HHK) được chỉ định của các nước thành viên sẽ tham gia ký kết hiệp định, theo nguyên tắc ASEAN – X. Thương quyền thứ 3, 4 và 5 cũng mong đợi sẽ đạt được giữa các nước thành viên. Về mảng dịch vụ vận tải hàng hóa hàng không, VN đã hoàn tất ký kết vào ngày 22.12.2009 hiệp định đa biên ASEAN về tự do hóa hoàn toàn dịch vụ vận tải hàng hóa hàng không cùng với Singapore, Thái Lan và Myanmar.

Chính sách “Bầu trời mở ASEAN” là một tổng thể bao gồm các hiệp định nhỏ được tổng hợp như hình 1. Chính sách “Bầu trời mở ASEAN” gỡ bỏ hạn chế thương quyền thứ 3, 4 và 5 cho các HHK được chỉ định bởi quốc gia ký kết và là thành viên ASEAN.

Hình 1. Nội dung của chính sách “bầu trời mở ASEAN”

Về mảng vận tải hàng hóa, các HHK được chỉ định của mỗi bên ký kết được phép thực hiện các chuyến bay vận chuyển hàng hóa lên đến 250 tấn mỗi tuần mỗi chiều, không bị giới hạn về tần suất và loại máy bay từ lãnh thổ của bên ký kết tới lãnh thổ của các bên ký kết khác và ngược lại.

Chính sách cũng yêu cầu từng quốc gia thành viên ASEAN mở cửa hoàn toàn sân bay quốc tế cho các quốc gia thành viên ASEAN khác. Chính sách chưa thể gỡ bỏ hạn chế thương quyền thứ 7 và sẽ được đưa vào đàm phán trong tương lai.

Để thực hiện chính sách “Bầu trời mở ASEAN”, lộ trình hội nhập VTHK được thiết lập để đặt ra các mục tiêu và lộ trình để các nước ASEAN thực hiện ký kết và áp dụng các hiệp định khung ASEAN. Tới nay, toàn bộ hiệp định khung bao gồm 3 hiệp định đa biên như đã nêu ở hình 1 đã được hoàn tất ký kết. Cụ thể, năm 2009, Hiệp định đa biên ASEAN về VTHK (Multilateral Agreement of Air Services – MAAS) đạt được thống nhất về thương quyền thứ 3,4,5 giữa 10 thủ đô các nước thành viên ASEAN. Năm 2010, Hiệp định đa biên ASEAN về Tự do hóa hoàn toàn dịch vụ Vận tải hàng hóa Hàng không (Multilateral Agreement for the Full Liberalisation of Air Passenger Services – MAFLPAS) thông qua thương quyền thứ 3,4,5 giữa 72 cảng HK, sân bay quốc tế giữa các nước ASEAN có hiệu lực đầu tiên giữa 5 nước ký kết là VN, Thái Lan, Singapore, Myanmar và Malaysia.

HK VN dưới tác động của chính sách “bầu trời mở ASEAN”

Ngay từ khi chính sách “Bầu trời mở ASEAN” xây dựng lộ trình, VN đã rất tích cực tham gia đóng góp ý kiến. Trong việc áp dụng chính sách, VN đã thể hiện những động thái tích cực.

Về kết nối thể chế, VN là một trong số các nước đầu tiên hoàn tất việc ký kết và phê duyệt tất cả các Hiệp định khung ASEAN và các Nghị định thư thực hiện về tạo thuận lợi vận tải đã ký kết trong ASEAN cũng như các thỏa thuận hợp tác VTHK theo đúng lộ trình hội nhập VTHK, thực hiện chính sách “Bầu trời mở ASEAN”.

Đến nay, VN đã gỡ bỏ hạn chế thương quyền 3,4,5 giữa các sân bay quốc tế của VN với các nước ASEAN khác. Ngoài ra, VN cũng có chính sách khuyến khích HK các nước ASEAN tăng cường mở rộng đường bay đến các sân bay thứ cấp của VN như Phú Bài, Liên Khương, Phú Quốc thông qua các chính sách hỗ trợ giảm giá, phí tại các cảng HK này.

“Về mảng vận tải hàng hóa, các HHK được chỉ định của mỗi bên ký kết được phép thực hiện các chuyến bay vận chuyển hàng hóa lên đến 250 tấn mỗi tuần mỗi chiều, không bị giới hạn về tần suất và loại máy bay từ lãnh thổ của bên ký kết tới lãnh thổ của các bên ký kết khác và ngược lại.”

Việc thực hiện cam kết của VN không riêng lẻ trong hội nhập nội khối ASEAN mà diễn ra trong khuôn khổ Quy hoạch phát triển giao thông VTHK của VN giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Một trong các nội dung quan trọng của Quyết định này là việc thực hiện tự do hóa VTHK (bao gồm cả thương quyền 5 trong ASEAN) để đến năm 2020 xây dựng được mạng đường bay Đông Nam Á bao gồm:

(i) Mạng đường bay trong tiểu vùng VN – Lào – Campuchia – Myanmar;

(ii) Tăng cường tần suất khai thác cao trên các đường bay từ TP. Hồ Chí Minh/Hà Nội đi Bangkok, Kuala Lumpur, Singapore; mở đường bay từ Đà Nẵng đến các điểm này;

(iii) Khuyến khích mở các đường bay quốc tế trực tiếp giữa Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ, Phú Quốc với các nước trong khu vực.

Các HHK cũng đã tham gia tích cực cho chính sách “Bầu trời mở ASEAN”. Nổi bật trong đó có HHK Vietjet. HHK này đã chuẩn bị về công nghệ, an ninh HK, nguồn nhân lực và đội máy bay cho chính sách “Bầu trời mở ASEAN”.

Về công nghệ, hãng Vietjet Air đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác với hãng sản xuất máy bay Boeing trên nền tảng là hai bên sẽ cùng tìm hiểu cách để phát triển quan hệ hợp tác chiến lược. Vietjet Air cũng đã ký biên bản ghi nhớ với công ty đa quốc gia Honeywell Aerospace để hợp tác thiết kế và sản xuất bộ quản lý dữ liệu trị giá 56 triệu USD cho đội máy bay.

Về an ninh HK, Vietjet đã nhận được chứng nhận An toàn Vận hành IATA Operational Safety Audit vì đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quốc tế trong vận hành. Việc nhận được một chứng nhận như vậy là cột mốc đánh dấu sự phát triển trong quản lý an ninh HK ở các HHK và thể hiện ý muốn thực hiện tốt nhất để đảm bảo an toàn trong vận hành theo tiêu chuẩn của IATA.

Về trang bị đội máy bay, Vietjet đã ký thỏa thuận với Airbus để mua thêm 20 máy bay A321 với tổng giá trị 6,5 tỉ USD, nâng tổng số máy bay của hãng bao gồm cả sở hữu và đi thuê là 107 chiếc. Trong năm 2015 và năm 2016, hãng Vietjet cũng đã ký gói bảo hiểm trị giá 1,5 tỉ USD cho đội máy bay của mình. Vietjet hiện tại có 26 máy bay A320 và A321 sử dụng cho 33 chặng bay quốc tế và nội địa.

Về nguồn nhân lực, tháng 02.2016, Vietjet đã ký thoả thuận với Airbus thành lập trung tâm huấn luyện bay tại VN, tập trung cho đào tạo phi công, kỹ sư, thợ máy, điều phối bay và giáo viên. Với thỏa thuận này, Vietjet đã trở thành HHK đầu tiên tại VN phối hợp với Airbus tổ chức các hoạt động huấn luyện bay cho phi hành đoàn và đào tạo bảo trì với dòng tàu bay A320.

Trong thực tế áp dụng chính sách “Bầu trời mở ASEAN”, thị trường vận tải hàng hóa hàng không (VTHHHK) VN có những thuận lợi và khó khăn sau:

Thuận lợi

Tốc độ tăng trưởng GDP của VN ổn định

Giai đoạn 2011 – 2013, dù trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang hoạt động trì trệ thì tốc độ tăng trưởng GDP của VN luôn ở mức trên 5%. Từ năm 2013 trở đi, nền kinh tế bắt đầu phục hồi, và đến năm 2015, GDP của VN tăng 6,68%, cao nhất trong giai đoạn 2010 – 2015. Tốc độ tăng trưởng GDP luôn tăng và ổn định là một dấu hiệu tích cực cho thấy nhu cầu mở rộng sản xuất ngày càng cao, đặc biệt chú trọng các mặt hàng linh kiện điện tử – có trọng lượng nhỏ nhưng giá trị cao, phù hợp với vận tải hàng hóa bằng đường HK.

Khó khăn

Hạn chế về hạ tầng và cơ sở vật chất

Đối với doanh nghiệp (DN) ngành dịch vụ HK, yêu cầu lớn nhất là mặt bằng khai thác và hệ thống kho bãi. Tại Công ty Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài (NCT), hầu hết mặt bằng và kho bãi của NCT đều đi thuê với chi phí cao, tại các địa điểm phân tán gây khó khăn cho việc tập trung xử lý hàng hóa. Tại sân bay Tân Sơn Nhất liên tục diễn ra tình trạng tắc nghẽn, giảm hiệu suất xử lý hàng hóa, gây ảnh hưởng nhiều đến thương mại nói chung. Khi hạ tầng hàng không chưa đáp ứng được yêu cầu, các HHK sẽ ngại bay tới nơi hạ tầng chưa đáp ứng được và do vậy, không những các hãng hàng không thất thu mà các sân bay cũng mất lượng hàng lớn. Điều này ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động của DN lĩnh vực HHHK.

Theo biểu đồ 1, nhà ga hàng hóa tại hai sân bay lớn nhất VN đều đã khai thác hết công suất. Cụ thể, tại CHKQT Tân Sơn Nhất, công suất khai thác đạt 118% và tại CHKQT Nội Bài, công suất khai thác đạt 133%. Tình trạng quá tải xảy ra trong thời gian dài và thường xuyên đã gây khá nhiều khó khăn trong hoạt động và điều phối xử lý hàng tại hai cảng HK, dẫn đến hậu quả trễ, chậm, hàng nằm chờ hoặc không đủ chỗ để lưu kho hàng hóa.

Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu

Mặc dù các HHK đã tăng cường mở các khóa huấn luyện nâng cao tay nghề nhân viên, đặc biệt lao động đặc thù chuyên ngành HK như đào tạo người lái máy bay, nhân viên không lưu và nhân viên bảo dưỡng, sửa chữa máy bay thì vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu trong bối cảnh ngành HK VN phát triển bùng nổ như hiện nay. Cơ sở đào tạo với các DN trong ngành thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa việc đào tạo và sử dụng lao động, cũng như giữa đào tạo kiến thức chung với huấn luyện thực tế tại các DN trong ngành.

Hiện nay, Học viện Hàng không VN là cơ sở đào tạo nhân lực chuyên ngành hàng không duy nhất từ các bậc đại học, đến trung cấp nghề và bồi dưỡng ngắn hạn.

Về hình thức đào tạo nhân lực HK ở VN mới có các hình thức đào tạo ở các bậc đại học, cao đẳng, trung cấp nghề, bồi dưỡng ngắn hạn và huấn luyện thực hành. Đào tạo bậc sau đại học các chuyên ngành chỉ có thể đào tạo ở nước ngoài.

Thiếu đồng bộ trong quy hoạch hạ tầng và định hướng phát triển

Để chuẩn bị cho chính sách “Bầu trời mở ASEAN”, các HHK VN đã trang bị tích cực và chủ động về đội máy bay và cơ sở vật chất kỹ thuật. Thế nhưng, tình trạng công suất khai thác liên tục bị quá tải ở các CHKQT, việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới còn mất nhiều thời gian và chưa được triển khai triệt để đã tạo ra sự mâu thuẫn trong định hướng phát triển các HHK và tiến độ quy hoạch cơ sở hạ tầng, gây khó khăn trong hiệu quả khai thác của các hãng và tận dụng lợi ích của chính sách “Bầu trời mở ASEAN”.

Từ những thuận lợi và khó khăn đó, có thể nói, chính sách “Bầu trời mở ASEAN” đã và sẽ có thể tác động đến thị trường VTHK VN theo hai hướng tích cực và tiêu cực.

Tác động tích cực

Thúc đẩy mở cửa thị trường, phát triển thương mại

Theo ông Võ Huy Cường, Cục phó Cục Hàng không Việt Nam, trước đây, trong lĩnh vực HK, các quốc gia cùng ký một hiệp định mang tính điều tiết. Điều này có nghĩa là Nhà nước can thiệp trực tiếp vào việc cho phép số lượng đường bay, số lượng HHK tham gia thị trường; số lượng điểm đi, điểm đến, tần suất bay… Sự điều tiết này có thể không phải dựa trên cơ sở thị trường mà có thể quyết định trên việc bảo vệ lợi ích của HHK. Với chính sách “Bầu trời mở ASEAN”, những rào cản về tần suất, số chặng bay sẽ được gỡ bỏ, do đó, giao thương hàng hóa trong khu vực được kỳ vọng sẽ tăng lên.

Tăng khả năng cạnh tranh của DN

Việc gỡ bỏ hạn chế thương quyền cho tất cả các HHK được chỉ định của 9 quốc gia ASEAN khác, thị trường VTHHHK VN chắc chắn sẽ đón nhận một làn sóng các đối thủ đến từ các quốc gia đã có ngành HK phát triển như Singapore, Thái Lan và Malaysia. Trong môi trường mà can thiệp trực tiếp của nhà nước giảm tối đa vào hoạt động kinh doanh, tạo môi trường tự do kinh doanh cho các DN vận tải hàng không, cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, các DN trong ngành VTHHHK VN sẽ có nhiều động lực để thay đổi và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Liên kết nội địa với khu vực và củng cố mạng lưới sản xuất

VTHK là phương thức vận tải an toàn, nhanh và phù hợp với đặc điểm địa lý khu vực Đông Nam Á. HK đóng vai trò là phương tiện đầu ra hiệu quả cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của VN bao gồm dệtmay và linh kiện điện tử. Ngoài ra, chính sách “Bầu trời mở ASEAN” cũng là động lực để các quốc gia đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, phát triển các kỹ năng thích hợp để củng cố mạng lưới sản xuất khu vực.

Tác động tiêu cực

Nguy cơ bị loại bỏ khỏi thị trường Như đã phân tích ở trên, năm 2015, thị phần vận tải hàng hóa quốc tế của các HHK VN là 11,5%, trong khi khối lượng hàng hóa quốc tế tại thị trường VTHHHK VN là 60%. Khi áp dụng chính sách “Bầu trời mở ASEAN”, nếu các HHK chưa có biện pháp nâng cao năng lực phục vụ của mình, thị trường VTHHHK VN sẽ sớm bị chiếm lĩnh bởi các HHK nước ngoài.

Tăng cường phụ thuộc vào các nước trong khối ASEAN Một trong những đặc điểm của khu vực ASEAN là trình độ kinh tế của các quốc gia không đồng đều nhau và vì thế, năng lực của các HHK của mỗi quốc gia cũng sẽ cách biệt nhau. Trong bối cảnh hội nhập và tự do hơn, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường trong nước.

Giải pháp các HHK

Phát triển nguồn lực tài chính

Nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ VTHHHK và khả năng cạnh tranh, các HHK cần có nguồn lực tài chính đủ mạnh để có thể phát triển đội bay chở hàng, kho bãi chứa hàng và trang thiết bị xếp dỡ hàng cũng như nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên. Sau khi thực hiện cổ phần hóa, các HHK có thể tiếp tục nỗ lực tăng nguồn vốn điều lệ bàng việc phát hành cổ phiếu, kêu gọi sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước đồng thời kêu gọi sự góp vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế.

Hiện nay, HHK quốc gia VN (Vietnam Airlines) đã thực hiện cổ phần hóa với hình thức giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Cụ thể, Nhà nước nắm 75% cổ phần và tiếp tục giảm đến không dưới 65%, 25% số cổ phần còn lại sẽ được bán ưu đãi cho cán bộ nhân viên, chào bán cho nhà đầu tư chiến lược và bán đấu giá công khai. Vietnam Airlines đã thực hiện cổ phần hóa vào năm 2015 và đã có những kết quả khả quan. Lãi trước thuế của tổng công ty này trong 9 tháng đầu năm 2015 đạt hơn 1.300 tỉ đồng. Trong khi vào năm 2014, lợi nhuận trước thuế mà DN này đạt được chỉ khoảng 171 tỉ đồng. Vào tháng 7.2016 vừa rồi, ANA Holding Inc. đã chính thức trở thành cổ đông chiến lược của Vietnam Airlines, mua 8,771% cổ phần của Vietnam Airlines, với giá trị 2.431 tỷ đồng.

Đa dạng hóa mặt hàng vận chuyển

Với thị trường mở rộng, nhu cầu vận tải hàng hoá cũng sẽ nhiều hơn và đa dạng hơn. Để đáp ứng nhu cầu vận tải của khách hàng, các HHK VN cần tập trung phát triển các mặt hàng vận tải mang lại doanh thu cao và có nhu cầu lớn. Việc tiếp tục đầu tư vào đội máy bay mới và hiện đại, nghiên cứu đầu tư máy bay chở hàng chuyên dụng, có khả năng vận tải được nhiều loại hàng hóa khác nhau là điều cần làm. Ngoài ra, các hãng HKVN cũng cần nghiên cứu phát triển dịch vụ vận tải chuyển phát nhanh (express services) và vận tải hàng có giá trị cao. Đây là thị trường chưa có sự xuất hiện của bất kỳ HHK nào tại VN và toàn bộ thị phần nay thuộc về các HHK nước ngoài. Dịch vụ vận tải hàng hóa bằng máy bay chở hàng chuyên dụng sẽ giúp tăng tải cung ứng và uy tín của HHK đối với khách hàng.

Xây dựng đội ngũ nhân lực có trình độ

Để đáp ứng được yêu cầu thị trường HK thống nhất dưới chính sách “Bầu trời mở ASEAN” và để phù hợp với mục tiêu chiến lược về chất lượng nguồn lao động của ASEAN, các HHK cần tập trung vào huấn luyện nghiệp vụ và công việc theo đặc thù công nghệ tại hãng của mình. Các HHK cần kết hợp với các trung tâm đào tạo có uy tín để tổ chức các khóa học một cách toàn diện về các kỹ năng cần thiết khi tham gia lao động. Quan trọng hơn cả là gắn kết giữa đào tạo với huấn luyện và thực hành, đồng thời tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo nhân lực HK với bản thân HHK nhằm đưa đào tạo sát với nhu cầu xã hội, gắn lý thuyết với thực tế và tận dụng thế mạnh của nhau trong việc đào tạo và huấn luyện nhân lực HK. Bên cạnh việc liên kết với các cơ sở đào tạo trong nước, các HHK cũng cần tăng cường hợp tác với nước ngoài trong công tác đào tạo và huấn luyện nhân lực HK nhằm đào tạo nhân lực theo chương trình chất lượng cao, đồng thời tiếp thu những chương trình tiên tiến, chuyển giao công nghệ và cơ sở thực hành, phát triển đội ngũ nhân viên của hãng.

Công ty dịch vụ HHHK

Vấn đề lớn nhất tồn tại liên quan đến công suất khai thác và công suất thiết kế, tăng cường mặt bằng khai thác, đầu tư trực tiếp hệ thống kho bãi. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, các công ty dịch vụ HHHK cần giải quyết vấn đề về công suất mà trong vòng 1-2 năm tới, vấn đề vẫn chưa thể thực hiện được do kế hoạch quy hoạch tại các khu vực Cảng hàng không quốc tế và sự khó khăn nhất định trong thủ tục thuê đất mở rộng kinh doanh. Do đó, bản thân công ty dịch vụ HHHK phải tối ưu hóa quy trình xử lý hàng tại các cảng HK bằng việc đảm bảo năng lực của đội ngũ nhân viên, đơn giản hóa quy trình thủ tục và tích cực nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm hệ thống xếp dỡ kho bãi và xử lý hàng tại các cảng HK.

Đưa ra nhiều chính sách giá cạnh tranh và mức giá đa dạng để có thể mở rộng phân khúc thị trường phục vụ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu VTHHHK của thị trường.

Biểu đồ 1. Công suất khai thác và công suất thiết kế tại 2 nhà ga  hàng hóa Tân Sơn Nhất và Nội Bài năm 2014

Nhà nước

Hiện nay, VN cùng các nước thành viên cần có một khung pháp lý điều chỉnh các tiêu chuẩn trong hoạt động kinh doanh HK một cách thống nhất, đặc biệt ở hạng mục về an toàn an ninh hàng không. Ngoài ra, cần tập trung xây dựng, hoàn thiện Quy hoạch phát triển các CHKQT Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Chu Lai và Long Thành, đồng thời sớm hoàn thành việc rà soát để trình sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự bình đằng trong cơ hội đầu tư kinh doanh.

“Bầu trời mở ASEAN” cần thực sự mở để các đối tượng tham gia khai thác thị trường thực sự được hưởng lợi và gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Do đó, nhà nước cần xem xét để dần gỡ bỏ các chính sách hiện tại có tính chất bảo hộ cho ngành HKVN gây cản trở đến sự phát triển của vận tải hàng không, bao gồm hạn chế của các nước ASEAN áp dụng đến quyền kiểm soát và sở hữu các HHK.

Đảm bảo an ninh hàng hóa vận tải bằng đường HK tại VN qua các biện pháp: gấp rút trang bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ để tiết kiệm tối đa thời gian liên quan đến thủ tục hành chính cho các lô hàng, thực hiện thông quan hàng hóa điện tử ở các chặng bay quốc tế. Kết hợp với Tổng cục Hải quan tiếp tục mở rộng chương trình DN ưu tiên đặc biệt (Authorised Economic Operator) đã thực hiện thí điểm từ giữa năm 2011 (Tổng cục Hải quan, 2013). Bên cạnh đó, tiếp tục xem xét việc thí điểm chương trình “Đại lý điều tiết” (Regulated Agent), bổ sung các quy định về mô hình này trong Luật HKVN VN để phù hợp với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, tuân thủ công ước Chicago 1944 và các tiêu chuẩn thực thi về đảm bảo an ninh HK mà VN là thành viên.

Bộ Giao thông vận tải

Có trách nhiệm lãnh đạo, định hướng, phối hợp các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quản lý, triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt theo đúng tiến độ.

Xã hội hóa việc phát triển kết cấu hệ thống giao thông đồng bộ trên cơ sở huy động tối đa mọi nguồn lực, coi trọng nguồn nhân lực trong nước nhằm cải thiện bộ mặt hạ tầng giao thông vận tải nói chung và tạo điều kiện thuận lợi cho ngành VTHHHK tại VN nói riêng.

Tăng cường nâng cấp và trang bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo an ninh HK, đặc biệt là an ninh hàng hóa vận tải bằng đường HK bằng cách yêu cầu các đơn vị liên quan thường xuyên tập huấn, nâng cao nghiệp vụ trong việc đảm bảo an ninh mạng, có các biện pháp phòng ngừa các cuộc tin tặc tấn công vào mạng thông tin của ngành HK.

Ngoài ra, yếu tố con người có vai trò quan trọng trong việc phòng, ngừa các cuộc tấn công mạng. Với những đặc thù của ngành, cần đảm bảo hệ thống máy móc, thiết bị phục vụ cho ngành HK cần phải được sử dụng độc lập, riêng rẽ tránh tối đa các nguy cơ xâm nhập từ bên ngoài vào.

Cục hàng không dân dụng VN

Tiếp tục triển khai công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện từng bước đúng theo nội dung bản Quy hoạch phát triển GTVT Hàng không VN giai đoạn đến năm 2020.

Hướng dẫn và khuyến khích các HHK duy trì chính sách giảm giá dịch vụ để khuyến khích hoạt động bay quốc tế đến VN, đặc biệt là các CHKQT mới. Bên cạnh đó, Cục Hàng không cũng cần duy trì chính sách phát triển thị trường nội địa theo hướng bình đẳng giữa các DN, cấp quyền vận tải theo nhu cầu của các HHK.

Ở một quy mô rộng hơn, Cục Hàng không VN cần xây dựng cơ chế hỗ trợ của Nhà nước nhằm khuyến khích các HHK tăng cường, phát triển các đường bay đến các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Đồng thời, tạo điều kiện và đơn giản hóa quy trình thủ tục để các hãng có thể hoạt động bay một cách nhanh chóng, an toàn và dễ dàng.

Về nguyên tắc, chính sách “Bầu trời mở ASEAN” sẽ mang đến tác động tích cực đến thị trường VTHHHK tại VN. Tuy nhiên, điều này có thể là “lợi bất cập hại” vì sự chuẩn bị về phía VN chưa thực sự đồng bộ. Để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực, VN cần có sự phối hợp thống nhất trong thay đổi và chuẩn bị của các thành phần tham gia vào thị trường khi chính sách đi vào hiệu lực.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Phát triển thương hiệu hàng nông sản Việt Nam: Tiếp cận từ góc độ chuỗi cung ứng (Phần 2)

Dựa trên những phân tích, nhận định về vị trí thương hiệu và những trở ngại của việc xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam (VN) trong các chuỗi cung ứng đã đăng vào số tháng 5 của Tạp chí, bài viết kỳ này sẽ phân tích một số quan điểm giúp xây dựng thương hiệu hàng nông sản VN trong giai đoạn hiện nay.

Chuỗi thương hiệu là công cụ cạnh tranh then chốt

Thương hiệu là công cụ cạnh tranh then chốt và có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với các thành phần quản trị khác trong chuỗi cung ứng doanh nghiệp (DN). Do đó, cần nhìn nhận giá trị thương hiệu (GTTH) hàng nông sản dưới góc nhìn của chuỗi cung ứng và vận dụng mô hình chuỗi giá trị thương hiệu (Brand value chain) cho chuỗi cung ứng nông sản VN. GTTH các mặt hàng nông sản phải được tạo ra từ các chuỗi giá trị thương hiệu hay các chuỗi cung ứng hàng hóa mang thương hiệu nhằm tận dụng được nguồn lực tổng thể của chuỗi với việc hình thành và duy trì GTTH tới tay khách hàng.

Chuỗi giá trị thương hiệu là khái niệm mô tả một loạt các hoạt động thương hiệu được sáng tạo dựa trên tương tác giữa khách hàng và công ty, khách hàng và sản phẩm và giữa các khách hàng với nhau. Giúp DN có tầm nhìn và khả năng phân tích, tìm kiếm các giá trị gia tăng cũng như phát triển các chương trình thương hiệu. Nó cũng mang sức mạnh của chiến lược, giúp thương hiệu tập trung vào các nguồn lực DN để có thể sáng tạo và phát triển các chiến lược đáp ứng khách hàng. (Kevin Lane Keller, 2008, From supply chain to brand chain).

Hình 3 cho thấy: Chuỗi cung ứng tạo ra sản phẩm, chuỗi thương hiệu tạo ra khách hàng. Chuỗi cung ứng tạo ra giá trị gia tăng từ hoạt động sản xuất sản phẩm, còn chuỗi thương hiệu tạo ra giá trị gia tăng từ nhận thức khách hàng. Chuỗi thương hiệu khi được áp dụng vào các chuỗi cung ứng nông sản sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho DN (Hình 4) do các hoạt động có khả năng tạo ra lợi thế đồng thời cho cả sản phẩm và khách hàng.

Hợp tác để xây dựng các chuỗi thương hiệu nông sản

Hợp tác để xây dựng các chuỗi nông sản làm cơ sở cho phát triển thương hiệu là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nó cho phép cả người trồng trọt, sản xuất, chế biến, kinh doanh cùng tham gia vào chuỗi giá trị này. Họ cùng nắm bắt thị trường và chuyển đổi cách nhìn về nó, nhắm tới nhu cầu thị trường mà sản xuất, chứ không sản xuất cái mình có. Giá trị lợi ích cuối cùng sẽ được phân phối tương thích với các thành viên trong chuỗi. Điều đó buộc các thành viên phải liên kết với nhau, hình thành mô hình khép kín từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Vấn đề liên kết chuỗi nông sản đã được nông dân Nhật Bản áp dụng từ 50 năm nay và đã thành công. Cũng từ mô hình này, nông dân Australia trở thành những người giàu nhất trên đất nước của họ. Cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận đó là mục đích cuối cùng của tất cả các thành viên tham gia chuỗi giá trị nông sản. Sự liên kết này chính là tiền đề để xây dựng một thương hiệu nông sản VN có tính thân thiện và nhân bản – một xu thế của thương hiệu thế giới ngày nay.

Duy trì công thức: Gắn nhãn + Chỉ dẫn địa lý + Các tiêu chuẩn chất lượng

Khi đã kiểm soát được chuỗi cung ứng, việc xây dựng các thương hiệu cá biệt cho hàng nông sản cần phải được đặt ra trong mối tương quan của chuỗi thương hiệu với thị trường có nghĩa là phải xác định đúng khách hàng mục tiêu, nhận định đúng yếu tố nào của sản phẩm mang lại sự hấp dẫn lớn nhất cho khách hàng, điểm nào của sản phẩm cần khác biệt nổi trội với thương hiệu cạnh tranh. Nếu liên hệ với vị trí hiện tại trong chuỗi cung ứng hiện nay, thì các DN nông sản VN sẽ thấy rằng chưa cần thiết phải làm thương hiệu cá biệt cho sản phẩm của mình, vì phần lớn chỉ có khách hàng là các tổ chức trung gian. Duy trì công thức: gắn nhãn + chỉ dẫn địa lý + các tiêu chuẩn chất lượng, để khẳng định năng lực cung ứng nông sản sơ chế vẫn là câu trả lời thiết thực cho các DN đang ở vị trí số 2 trong chuỗi xuất khẩu hàng nông sản VN. Về lâu dài, để xây dựng được các thương hiệu nông sản cá biệt, DN cần tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu, thực hiện bài toán nâng cấp chuỗi cung ứng để chiếm lĩnh vị trí tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng tại thị trường quốc tế. Khi DN làm chủ được vị trí cuối cùng trong chuỗi cung ứng thì mới có đủ điều kiện để sở hữu thương hiệu cá biệt của mình.

Thiết kế chuỗi giá trị sản phẩm

Với số ít các DN VN hiện đang có chiến lược xâm nhập trực tiếp vào các thị trường nước ngoài, thì cần sử dụng mô hình thiết kế chuỗi giá trị sản phẩm trong Hình 5.

Mô hình này cho phép định dạng chiến lược thương hiệu ngay sau khâu R&D (Nghiên cứu và phát triển sản phẩm) nhằm khai thác triệt để các hiểu biết về thị trường, về sản phẩm từ đó thiết kế sản phẩm để chủ động tạo ra các giá trị gia tăng cho sản phẩm ngay từ những khâu đầu tiên của chuỗi cung ứng. Với mô hình này, chiến lược thương hiệu sẽ được định dạng ngay từ khi thiết kế sản phẩm, lúc này doanh nghiệp có thể lựa chọn yếu tố chất lượng thương hiệu mang đậm màu sắc cảm xúc với khách hàng bởi lẽ ý tưởng về sản phẩm cũng đã được bắt đầu từ nhu cầu và cảm xúc của chính họ. Tùy theo điều kiện thực tế và chiến lược cụ thể của từng DN mà quy trình xây dựng, phát triển thương hiệu sẽ trải qua các bước và trật tự khác nhau. Tuy nhiên, phát triển thương hiệu cần có quan điểm xác định trong thời gian dài và có sự bảo đảm nhất định về tài chính để có đủ khả năng ổn định, phát huy thế cạnh tranh năng động cho một vài nhóm sản phẩm với phân khúc thị trường mục tiêu rõ ràng.

Xây dựng thương hiệu tập thể

Thương hiệu tập thể cũng là một hướng đi cần tiếp tục khai thác với hàng nông sản VN. Đây là giải pháp kết tinh sức mạnh tập thể và đòi hỏi các DN phải chung sức, chung tay vì lợi ích bền vững của chính DN mình thông qua việc thụ hưởng những lợi ích mang lại từ thương hiệu chung. Việc thành lập Trung tâm Sở hữu thương hiệu tập thể với chủ thể sở hữu cổ phần là các DN, người nông dân (thông qua HTX), các hội và Hiệp hội nghề sẽ tạo điều kiện cho các bên hợp tác sâu với nhau, cùng chung mục tiêu, lợi ích để phát triển thương hiệu tập thể. Việc quảng bá, truyền thông thương hiệu, xây dựng hệ thống liên kết DN tại thị trường nước sở tại cần có sự thống nhất từ phía cộng đồng DN, các Hội, Hiệp hội ngành nghề, sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía chính quyền trung ương, địa phương. Trước mắt, các hiệp hội ngành hàng nông sản của VN nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành cho người tiêu dùng ở một số địa phương tại các nước mà hàng VN hướng xuất khẩu tới. Đặc biệt quan tâm tới những chương trình liên kết hợp tác hỗ trợ cho thương hiệu tập thể tầm quốc gia từ Chính phủ, các Bộ ngành của VN với Chính phủ và các Bộ ngành của các nước sở tại để mở đường cho những chiến lược phát triển thương hiệu tập thể về lâu dài tại nhiều nước trên thế giới. Đây là một bước đi dài trong thời hạn ít nhất từ 5 đến 10 năm và là một chiến lược lớn đòi hỏi sự đầu tư, hợp tác chặt chẽ trong tinh thần cùng có lợi của nhiều bên tham gia.

Sự hỗ trợ của Nhà nước

Hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm đặc sản, bản địa, bước đầu để hình thành các thương hiệu nông sản cá biệt, tuy nhiên, quy mô sản xuất các sản phẩm này lại quá nhỏ bé. Do vậy, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ DN, hiệp hội xây dựng thương hiệu thông qua: Quy hoạch và xây dựng vùng sản xuất; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sản phẩm hoặc hài hòa tiêu chuẩn quốc tế; Quảng bá thương hiệu trên các phương tiện truyền thông; Huy động tối đa sự tham gia của các hãng vận tải để sử dụng và giới thiệu sản phẩm; Hỗ trợ tham gia xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm.

Hình thành các chuỗi cung ứng nông sản với các thương hiệu mạnh là giải pháp tổng thể nhằm đưa hàng hóa của VN thoát khỏi tình trạng xuất khẩu nông sản thô, giá trị thấp hiện nay. Thay vào đó là một giai đoạn mới với các thương hiệu nông sản mạnh, đưa hàng hóa VN lên một bậc cao hơn, nắm giữ được khâu quan trọng có hàm lượng giá trị cao trong cả chuỗi cung ứng ngành hàng nông thủy hải sản toàn cầu. Qua đó, hàng hóa của người nông dân VN có thương hiệu, vai trò người nông dân được nâng cao, mang lại lợi ích bền vững cho nền kinh tế và xã hội.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Phát triển thương hiệu hàng nông sản Việt Nam: Tiếp cận từ góc độ chuỗi cung ứng (Phần 1)

Tại Việt Nam, hàng nông sản là một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ đạo, có vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, trong điều kiện thế giới đang “bất định”, bất ổn và tự do hóa thương mại thúc đẩy các khu vực liên kết “mở”, các chuỗi cung ứng đang là một giải pháp hiệu quả để các doanh nghiệp (DN) cộng sinh và tồn tại thì việc nhìn nhận giá trị thương hiệu (GTTH) từ góc nhìn của các chuỗi cung ứng là cần thiết để nhận thức được những lợi ích và khó khăn mà các sản phẩm nông nghiệp đang thực sự đối mặt, từ đó tìm ra những hướng đi cho bài toán thương hiệu hàng nông sản Việt Nam trong tương lai.

Vị trí thương hiệu trong các chuỗi cung ứng toàn cầu

Hiện nay, chiếm lĩnh thị trường lâu dài đang là chiến lược phát triển bền vững của các DN thì thương hiệu ngày càng chi phối các phân khúc giá trị của sản phẩm. Theo số liệu thống kê từ InterBrand, chỉ riêng giá trị 100 thương hiệu hàng đầu toàn cầu đã lên tới 1.000 tỉ USD. Đồng thời ước tính tổng giá trị thương hiệu hiện nay đã chiếm gần một phần ba giá trị nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, một nền kinh tế phát triển bền vững, một quốc gia lớn mạnh cần phải có những thương hiệu có sức cạnh tranh cao cả ở trong thị trường nội địa và quốc tế.

Khi nhìn nhận chuỗi cung ứng như một chuỗi giá trị thì có thể thấy vị trí của thương hiệu là một trong các khâu cơ bản trong chuỗi và là một trong những khâu mang lại giá trị gia tăng (GTGT) cao hơn các khâu khác (Xem hình 1)

Với vị trí là nấc cuối cùng trong chuỗi cung ứng, thương hiệu có sức mạnh rất lớn trong việc đóng góp vào GTGT cho DN và sản phẩm, đồng thời chi phối toàn bộ chuỗi giá trị bởi lẽ khi đứng ở vị trí này thương hiệu tiếp cận trực tiếp với Khách hàng hay Con người. Và điều đơn giản là tất cả các sản phẩm trên thế giới, cuối cùng đều phục vụ cho Con người, nên Thương hiệu là khái niệm sâu sắc nhất, có thể thỏa mãn nhu cầu Con người một cách triệt để nhất.

Những trở ngại trong xây dựng thương hiệu nông sản

Trong một chuỗi cung ứng toàn cầu, việc xây dựng thương hiệu và gắn nhãn hiệu được các DN lớn trên thế giới đánh giá là khâu quan trọng và mang lại giá trị cao nhất, có ảnh hưởng lớn đến cả chuỗi. Mặc dù vậy, nhìn lại vị trí và vai trò tham gia của mặt hàng nông sản trong chuỗi cung ứng, có thể thấy các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đang nắm giữ những khâu cung ứng vừa không mang lại nhiều GTGT mà lại tiềm ẩn những rủi ro rất lớn về lâu dài do không xây dựng được thương hiệu tại thị trường của các nước xuất khẩu.

Theo Cục Sở hữu trí tuệ, hiện VN có khoảng 800 sản phẩm nông sản nổi tiếng ở các địa phương. Đến nay, đã có 59 nhãn hiệu tập thể, 12 nhãn hiệu chứng nhận và 24 chỉ dẫn địa lý được đăng ký bảo hộ cho các sản phẩm nông sản. Hiện có 53 sản phẩm nông sản được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, đây chỉ là nhãn hiệu, một cái tên để định danh và phân biệt hàng hóa, chưa phải là thương hiệu theo đúng nghĩa của nó, cho thấy chúng ta đang ở giai đoạn đầu của việc xây dựng thương hiệu nông sản nổi tiếng, đặt cơ sở, nền móng, điều kiện ban đầu: đó là các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký bảo hộ. Con số 95/800 sản phẩm nông sản nổi tiếng của VN được đăng ký nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là rất khiêm tốn.

Trong thực tế xuất khẩu (XK), hiện có từ 85% – 90% lượng hàng nông sản của nước ta vào thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các thương hiệu nước ngoài. Các DNVN xuất khẩu (XK) các nông sản ra nước ngoài phải gắn nhãn hiệu của các trung gian thương mại tại thị trường nước sở tại. Nhiều DN XK tại đồng bằng sông Cửu Long cho biết, trong một năm DN phải gắn không dưới 10 thương hiệu hàng hóa nước ngoài cho chính sản phẩm của mình, thậm chí có DN con số này lên đến trên 20. Nói cách khác là nông sản VN phần lớn đang tham gia vào các chuỗi cung ứng nhưng không có thương hiệu, nên chỉ bán phần hữu hình với giá khoảng 25% trên giá đến tay người tiêu dùng.

Nhìn từ góc độ chuỗi cung ứng, lý do của hiện tượng này có thể được phân tích như sau:

Về cơ bản thì các DNVN chủ yếu đứng ở vị trí thứ 2 (hoặc 3) trong chuỗi cung ứng trên. Các vị trí này là vô cùng quan trọng dù ở bất cứ cấu trúc chuỗi cung ứng dài hay ngắn, vì mang lại sản phẩm từ nguồn tài nguyên quốc gia cho thị trường thế giới. Nhưng ở vị trí này, các khách hàng của DNVN chỉ có thể là các trung gian ở vị trí thứ 3, 4 hoặc 5, họ là các tổ chức nhập khẩu, sản xuất, bán buôn, bán lẻ tại thị trường nước ngoài. Người tiêu dùng sử dụng thương hiệu sản phẩm của chuỗi cung ứng chỉ mua sản phẩm của các tổ chức này. Điều này lý giải vì sao nhiều DNVN chẳng màng gì đến việc xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản mặc dù đây chính là con đường duy nhất để đưa họ tới một vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.

Phê phán về cách làm thương hiệu nông sản của VN hiện nay, nhiều chuyên gia còn cho rằng các DNVN chỉ biết tập trung vào cải tiến chất lượng sản phẩm trong khi thương hiệu nổi tiếng trên thế giới lại cần tập trung chính vào cảm xúc của khách hàng, do đó, các DNVN chưa có các thương hiệu lớn. Tuy nhiên, xét ở vị trí thứ 2 và 3 do không phải là nhà cung cấp trực tiếp cho khách hàng tại thị trường nước ngoài, việc xây dựng uy tín cho nhãn hiệu – bước đầu của xây dựng giá trị thương hiệu cho hàng nông sản của VN hiện nay dĩ nhiên là phải tập trung vào chất lượng đồng đều của sản phẩm, cây con giống, vùng nguyên liệu… để đáp ứng đúng tiêu chuẩn của nhóm khách hàng trung gian. Nếu DNVN không cung cấp nguồn hàng đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu của họ thì việc đơn giản để đảm bảo “chất lượng theo người tiêu dùng”, họ sẽ thay đổi nhà cung cấp và các DNVN sẽ bị loại ra khỏi chuỗi cung ứng tại thị trường này. Vì vậy, việc chúng ta cứ loay hoay với vấn đề chất lượng sản phẩm theo cái nhìn của nhà sản xuất chưa quan tâm đến vấn đề chất lượng thương hiệu theo cái nhìn của người tiêu dùng cũng từ vị trí này mà ra.

Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu cá biệt cho các sản phẩm nông sản XK không tìm được lối ra còn do đặc điểm khách hàng tại thị trường nước ngoài của các DN nhỏ và vừa. Họ hầu hết là những nhà bán buôn lớn, có hệ thống phân phối gồm các nhà bán sỉ, bán lẻ lâu năm trên thị trường của nước sở tại. Trong các chuỗi cung ứng toàn cầu thì họ chỉ tham gia vào đúng khâu mang lại giá trị cao nhất và chiếm tỷ lệ lãi tốt nhất. Đó chính là khâu dán nhãn và phân phối trong thị trường nước sở tại. Thậm chí có những DN nước ngoài không chỉ yêu cầu các đối tác VN đóng gói tạm để xuất sang cho họ đóng gói lại mà còn gửi thẳng bao bì và nhãn hiệu hàng hóa trực tiếp cho bên VN đóng gói trước khi xuất đi, nhằm giảm chi phí tái đóng gói bao bì sản phẩm. Phần còn lại trong công việc của họ chính là khâu phân phối, khâu cuối cùng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Với vị thế này, liệu các DN nhỏ và vừa xuất khẩu hàng nông sản VN có thể ngay một lúc đủ nguồn lực để cạnh tranh và thay thế vị trí của họ?

Trong trường hợp số ít các DN XK VN tìm cách xâm nhập trực tiếp vào thị trường tiêu dùng, thì từ góc độ lợi ích người tiêu dùng ở nước sở tại chúng ta sẽ thấy lý do vì sao họ không thích mua hàng mang thương hiệu của các DNVN xuất sang mà lại chọn thương hiệu của các DN nhập khẩu ở nước sở tại ấy.

Lý do thứ nhất là các nhà bán sỉ, lẻ nước sở tại quan hệ chặt chẽ với các DN nhập khẩu từ rất lâu, họ tin tưởng khi mua hàng của DN nhập khẩu trong nước hơn là mua hàng trực tiếp từ DN XK VN. Mặc dù mua hàng trực tiếp từ DNVN rẻ hơn nhưng như thế là mạo hiểm. Bởi lẽ DN nhập khẩu đã dành nhiều nguồn lực cho việc xây dựng thương hiệu, xây dựng lòng tin đối với những nhà bán buôn sỉ, lẻ và người tiêu dùng. Bản thân những thương hiệu của họ có cấu trúc thương hiệu rõ ràng, thường gặp với dạng thương hiệu dù và bên dưới là những thương hiệu con, thương hiệu đại diện cho những sản phẩm mà các DNVN chúng ta đang cung cấp cho họ cũng chỉ là một vài thương hiệu con nằm trong số đó.

Thứ hai là DN nhập khẩu có mặt hàng đa dạng, nhà bán lẻ cũng cần mua rất nhiều mặt hàng, nhiều sản phẩm khác nhau trong khi DNVN chỉ bán được vài sản phẩm cho họ. Điều này làm mất đi lợi ích one stopshopping (được cung cấp tất cả dịch vụ và nhiều mặt hàng tại điểm bán của khách hàng) và thường làm tăng chi phí logistics.

Ngoài những khó khăn về phân phối và năng lực cạnh tranh về thương hiệu ở trên thì chi phí quảng cáo, quảng bá tới thị trường hàng tiêu dùng nông sản nước ngoài lại vô cùng đắt đỏ so với khả năng của các DNVN. Để một thương hiệu cá biệt tại thị trường nước sở tại được hình thành thì phải mất thời gian ít nhất là 5 năm. Đồng thời, chi phí mở một văn phòng đại diện hiện nay tại nước ngoài là khá cao trong khi thị trường xuất khẩu của mỗi DNVN không chỉ nằm gọn trong một nước mà trải rộng tại nhiều khu vực khác nhau từ Trung Đông, châu Âu, châu Mỹ,… Do đó, việc xây dựng một thương hiệu nông sản thuộc sở hữu của một DN vừa khó khăn, tốn nhiều kinh phí mà lại tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Những lý do trên đang là những trở ngại ngăn cản việc hình thành thương hiệu cá biệt cho nông sản của các DNVN.

Theo: Vietnam Logistics Review

Logistics Đông Nam Á: Chung tay cùng xây dựng

Các nước Đông Nam Á đang tiến hành hợp tác hiệu quả giữa khu vực nhà nước và tư nhân để cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ logistics nhằm thu hút thêm nhiều lợi ích đa quốc gia.

Theo ông Cecile Fruman, Giám đốc bộ phận thương mại và cạnh tranh của Ngân hàng Thế giới (WB), mức phát triển ngành vận tải ở các nước đang chậm lại, các nền kinh tế ASEAN thể hiện hiệu suất không đồng đều trong năm 2016. Cụ thể: chỉ số của Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Trong khi đó, Indonesia, Việt Nam và Philippines nằm trong top 10 quốc gia có thu nhập trung bình thấp hơn. Tuy nhiên, tất cả các nước ASEAN ngoại trừ Singapore, Myanmar và Campuchia lại trượt hạng trong năm 2016 so với cách đây hai năm.

Theo ước tính của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), ASEAN cần một khoản đầu tư cơ sở hạ tầng hàng năm là 60 tỷ USD đến năm 2020, với hơn 62% dành cho phát triển vận tải và năng lượng. Các nghiên cứu độc lập của Goldman Sachs cho thấy chỉ riêng Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines sẽ cần hơn 550 tỷ USD cho đầu tư cơ sở hạ tầng trong cùng thời kỳ.

Cách biệt logistics trong ASEAN

Theo báo cáo của WB, khoảng cách logistics giữa các nước phát triển nhiều và phát triển ít vẫn tồn tại, các nước thu nhập cao có chỉ số LPI cao hơn các nước thu nhập thấp trung bình là 45%. Jordan Schwartz, Giám đốc WB tại trung tâm phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng Singapore cho biết: “Mặc dù trong các khảo sát trước đây, các nước có hiệu suất thấp đang thu hẹp sự cách biệt, nhưng xu thế này đã đảo ngược trong năm 2016, khoảng cách giữa các quốc gia đứng đầu và cuối danh sách đang dần tăng lên”.

Nhưng chỉ riêng thu nhập không giải thích được hiệu suất, các nước như Campuchia và Myanmar đã cải thiện được hiệu suất logistics, điều này cho thấy sự sẵn sàng cải cách và các chính sách đúng đắn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự linh động trong thương mại xuyên biên giới.

Ông Schwartz nói thêm: “Cơ sở hạ tầng tiếp tục đóng vai trò lớn trong việc đảm bảo các kết nối cơ bản và quyền truy cập vào các cổng thông tin cho hầu hết các nước đang phát triển. Trong tất cả các nhóm thu nhập, những người trả lời khảo sát cho biết cơ sở hạ tầng đang được cải thiện. Tuy nhiên, trong tất cả các nước ASEAN trừ Singapore và Malaysia, điểm số cho cơ sở hạ tầng thấp hơn điểm tổng thể”.

Theo Max Ward, CEO và nhà đồng sáng lập Open Port – một diễn đàn di động trung lập giúp quản lý chuỗi cung ứng doanh nghiệp trong các thị trường mới, cải thiện kết nối logistics không chỉ trong quốc gia mà còn giữa các nước ASEAN sẽ thúc đẩy chuỗi giá trị và nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, đây không phải việc dễ. Theo ông Ward, nền kinh tế lớn nhất của Cộng đồng kinh tế Đông Nam Á (AEC) là Indonesia chi 26% GDP vào logistics, một trong những mức chi cho logistics cao nhất thế giới. Trong khi đó, cách biệt giá cả hàng hóa giữa các tỉnh ở Indonesia, cũng như những cơ chế logistics kém hiệu quả cản trở sự phát triển và kết nối kinh tế. Tương tự, Thái Lan mặc dù có khả năng tiếp cận dễ dàng với Campuchia, Việt Nam và Lào vẫn chi gần 20% GPD cho logistics.

Vượt qua phân mảnh logistics

Hạn chế về phương tiện tại các cảng trong ASEAN khiến tình trạng ùn tắc tồi tệ hơn, nhưng thách thức lớn hơn nữa là tổng chi phí để đem hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng và việc vận chuyển đường bộ chiếm nhiều thời gian hơn so với xử lý tại cảng. Theo ông Ward, thiếu đường xá ở nông thôn là nguyên nhân kéo dài thời gian vận chuyển và tăng chi phí hoạt động.

Trong mảng logistics và chuỗi cung ứng, vận tải là trung tâm của hiệu suất, nhưng nhiều công ty chưa nghĩ đến phương án quản lý chuỗi cung ứng tích hợp. “Nhiều nhà sản xuất nhỏ sử dụng container chỉ để chất/ dỡ hàng hóa tại cảng chứ không phải là nguồn và đích đến của hàng hóa”, ông Ward nói. Cung và cầu rời rạc trong dịch vụ vận tải khiến các xe tải vận chuyển thường trống ở chuyến về, tăng chi phí và làm giảm lợi nhuận. Vào thời điểm này, khi khu vực có sự thay đổi lớn trong mảng logistics, ông Ward cho biết các nhà nước ASEAN đã bắt đầu tập trung vào phát triển chính sách và tăng cường đầu tư để cải tạo cơ sở hạ tầng bị bỏ quên.

Nhưng chỉ riêng việc này chưa đủ để các nước ASEAN đẩy mạnh tăng trưởng và khả năng cạnh tranh. Ở Indonesia, Thái Lan và một số nước ASEAN khác, cần phải cải cách quản lý nguồn nhân lực và áp dụng các công nghệ mới để hỗ trợ quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả hơn.

Theo các nhà phân tích vận tải, mạng lưới vận chuyển đường sắt và hàng không cũng không đầy đủ ở nhiều nước ASEAN. Cùng với việc triển khai các tàu hàng chỉ vận hành trên biển, cảng sẽ cần phải đầu tư vào đường sắt và tương tự cho vận chuyển liên hợp. Các sân bay (ngoại trừ Singapore) cần phải nâng cấp mạnh. Vận chuyển hàng không đang được tăng cường trong ASEAN, nhưng vẫn cần nhiều đường băng và kho hàng mới.

Sau bất đồng TPP

Khi Tổng thống Trump thực hiện lời hứa tranh cử kéo Hoa Kỳ ra khỏi đề xuất Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 12.2016, nhiều nhà phân tích thương mại đã bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ hơn cho mối quan hệ hiện tại của ASEAN. Theo ông Jonathan Gold, Phó Chủ tịch chuỗi cung ứng và chính sách hải quan của Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia Hoa Kỳ cho biết: “Không có TPP, chúng ta chắc chắn cần nhiều hợp tác song phương hơn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này không chỉ đúng cho các nhà bán lẻ, mà còn cả các nhà vận chuyển nông nghiệp và sản xuất nhỏ”.

Bà Rosemary Coates, Chủ tịch Blue Silk Consulting, nói rằng rất có thể Trung Quốc sẽ bước vào để lấp đầy khoảng trống, trong khi gây ảnh hưởng và thúc đẩy phát triển vận tải của riêng họ trên khắp châu Á. Điều này khiến ASEAN trở nên quan trọng hơn với lợi ích quốc gia Hoa Kỳ. Chúng tôi muốn giúp đỡ các quốc gia khu vực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông “kỹ thuật số”. Bà Coates từng dẫn đầu một hội thảo thiết kế quy trình tại Singapore cho tất cả các nước thành viên ASEAN. Các đại diện chính phủ khu vực nhiều năm nay đã nghiên cứu các đặc tả phần mềm kỹ thuật cho dự án “Single Windows” của ASEAN, được thực hiện để thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm tạo điều kiện cho nhập khẩu và xuất khẩu giữa các quốc gia.

“Họ chỉ vừa bắt đầu thiết kế các quy trình vật lý chuẩn để bổ sung cho công nghệ và tôi rất ngạc nhiên vì mức độ khó khăn khi thành lập thỏa thuận chung khu vực, cho dù thuộc tiêu chuẩn nào đi nữa”, bà Coates cho biết. Theo bà, các thành viên ASEAN vẫn đang ở các giai đoạn khác nhau trong phát triển hệ thống logistics. Chẳng hạn như Singapore đã phát triển với các cảng hiện đại và mức độ tin học cao trong quản lý thương mại, trong khi Myanmar thì ngược lại, chỉ mới bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản và các hệ thống máy tính. Bên cạnh đó, bà còn cho biết ảnh hưởng từ bên ngoài và tài trợ từ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ và các tổ chức khác cũng rất quan trọng để tiếp tục việc chuẩn hóa thương mại và ổn định khu vực này. Tuy nhiên, thật khó trong thời điểm hiện tại khi Hoa Kỳ đang quay lưng với các các hiệp định thương mại mới cũng như sẵn có.

Nhã Hân chuyển ngữ theo logisticsmgmt.com

Theo: Vietnam Logistics Review.

Sasteco chuyển đến trụ sở giao dịch mới

Từ ngày 1.6.2017, Công ty Cổ phần Xếp dỡ và dịch vụ Cảng Sài Gòn (Sasteco) sẽ dời trụ sở Công ty về địa chỉ mới là 155 đường số 8, khu dân cư Nam Long, P.Tân Thuận Đông, Q.7, TP.HCM.

Thực hiện kế hoạch di dời, bàn giao mặt bằng khu cảng Nhà Rồng – Khánh Hội cho chủ đầu tư Công ty TNHH Đầu tư phát triển đô thị Ngọc Viễn Đông theo chủ trương của cơ quan có thẩm quyền, từ ngày 1.6.2017, Công ty Cổ phần Xếp dỡ và Dịch vụ Cảng Sài Gòn (Sasteco) sẽ dời trụ sở công ty từ địa chỉ cũ 1B Trương Đình Hợi, P.18, Q.4, TP.HCM về địa chỉ mới là 155 đường số 8, khu dân cư Nam Long, P.Tân Thuận Đông, Q.7, TP.HCM.

Mọi thông tin liên lạc và hoạt động giao dịch với Công ty, Quý khách hàng và đối tác vui lòng liên hệ theo địa chỉ trụ sở mới, điện thoại: (08) 38731365 – 38731168, fax: (08) 38731263 – 38731262.

Lưu ý: Trụ sở Công ty viết trong hóa đơn và hợp đồng vẫn giữ nguyên địa chỉ: 1B Trương Đình Hợi, P.18, Q.4, TP.HCM.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Phát triển đội tàu vận chuyển container

Ngày 22.5.2017, Công ty CP Vận tải biển Tân Cảng (TCS) và Công ty CP Vận tải & Xếp dỡ Hải An (HATS) ký thỏa thuận hợp tác với mục tiêu phát triển đội tàu vận tải container nhằm hoàn thiện tuyến vận tải container nội địa và tham gia khai thác các tuyến vận tải container quốc tế.

Thỏa thuận giúp hai công ty trở thành đối tác chiến lược lâu dài, phát triển kinh doanh hiệu quả trên các lĩnh vực khác mà hai bên có thế mạnh như: khai thác cảng, logistics, một số lĩnh vực khác, hợp tác hỗ trợ, cùng quảng bá và xây dựng thương hiện.

Quang cảnh làm việc

Đối với các tuyến vận chuyển nội địa: cung cấp “Daily Service”, dịch vụ vận chuyển container hàng ngày đến và đi các cảng chính tại Việt Nam.

Đối với các tuyến vận chuyển quốc tế: mở các tuyến vận chuyển container đi Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Nhật Bản, Ấn Độ…

Ông Vũ Ngọc Sơn-Chủ tịch Hội Đồng Quản trị HATS và ông Ngô Minh Thuấn – Phó TGĐ SNP ký kết hợp tác

Đây là bước chuyển mình vững mạnh mới của cả hai công ty hàng đầu tại Việt Nam khi kết hợp cùng khai thác các tuyến vận chuyển nội địa và quốc tế. Theo thỏa thuận, lộ trình triển khai được chia làm hai giai đoạn.

Giai đoạn 1: Hai bên mở dịch vụ vận chuyển container hàng tuần từ Việt Nam – Singapore và ngược lại, theo tuyến hành trình cụ thể như sau: Hải Phòng (cảng Hải An) – Cái Mép – HCM (cảng Cát Lái) – Singapore – HCM (Cảng Cát Lái) – HCM (cảng VICT/Bến Nghé) – Hải Phòng (cảng Hải An).

Phương thức thực hiện: lập tuyến tàu chung “Joint service”, mỗi bên góp một tàu container có trọng tải khoảng 707 – 787 TEU để cùng khai thác theo phương thức đổi chỗ…

Giai đoạn 2: Sau khi có sản lượng ổn định, hai bên thống nhất góp vốn thành lập pháp nhân mới dưới hình thức công ty cổ phần để vận hành các dịch vụ vận chuyển container đi quốc tế và nâng cấp các tàu vận chuyển container lên mức tải trọng 1.200 – 1.700 TEU để khai thác.

Ông Nguyễn Đăng Nghiêm – Tổng GĐ SNP phát biểu

Ông Nguyễn Đăng Nghiêm – Tổng Giám đốc Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn phát biểu “Sự hợp tác này sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh vận chuyển container của ngành vận tải biển trong nước và khu vực, góp phần phát triển kinh tế biển theo đúng mục tiêu tăng trưởng kinh tế”.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Cảng Đồng Nai hướng đến hoàn thiện chất lượng dịch vụ

Ngày 24.5.2017, Công ty CP Cảng Đồng Nai (PDN) đã có buổi tiếp xúc với khách hàng tại khu công nghiệp Dầu Giây. Tại đây, PDN đã tiếp nhận, cũng như giải đáp các thắc mắc của khách hàng sử dụng dịch vụ tại Cảng.

Hội nghị khách hàng được tổ chức bởi Công ty Cổ phần KCN Dầu Giây, đây hiện là KCN thứ 27 trong số 31 KCN của tỉnh Đồng Nai với tổng diện tích quy hoạch là: 330,8ha. Đến nay đã thu hút được 19 DN trong và ngoài nước vào đầu tư với tỷ lệ lấp đầy là 55,99%. Hội nghị khách có sự hiện diện của hai chi cục Hải quan tại khu vực Thống Nhất và Biên Hòa, cùng với Ngân hàng Vietinbank và Cảng Đồng Nai.

Quang cảnh hội nghị

Việc phối hợp đối thoại, lấy ý kiến DN là một trong những hoạt động nhằm nâng cao và hoàn thiện chất lượng dịch vụ của Cảng Đồng Nai. Đây là buổi tiếp xúc đầu tiên của PDN tại KCN Dầu Giây, trong đó bà Tiết Bạch Hiền – Đại diện PDN đã nhấn mạnh “chúng tôi đã không ngừng nỗ lực, đồng hành và phát triển cùng quý DN trong thời gian qua, với mong muốn dựa trên nền tảng thấu hiểu, chia sẻ. Do đó, PDN đã có những bước hỗ trợ khách hàng bằng những dịch vụ thực tế như hỗ trợ phí vận chuyển hàng hóa bằng xà-lan đến các cảng lân cận như Cái Mép, và hiện nay PDN cũng đang nỗ lực xây dựng mô hình trên đối với khu vực cảng tại TP.HCM…”

Đại diện chi cục HQĐN giải đáp thắc mắc cho DN tại KCN Dầu Giây

Việc phối hợp đối thoại, lấy ý kiến DN là một trong những hoạt động nhằm nâng cao và hoàn thiện chất lượng dịch vụ của Cảng Đồng Nai. Ngoài ra, PDN cũng từng bước nâng cao, mở rộng kho bãi, phối hợp chặt chẽ với các đối tác khác nhằm hoàn thiện hệ thống logistics tại khu vực Đồng Nai.

Đại diện Cảng Đồng Nai đối thoại với DN

Ông Châu Văn Hiệp, Tổng Giám đốc KCN Dầu Giây cho biết “Với mục đích là cầu nối để các DN trong KCN Dầu Giây tìm kiếm được những đối tác tin cậy và mang lại nhiều lợi ích về mặt logistics và dịch vụ ngân hàng, chúng tôi tổ chức buổi Hội thảo với tham vọng là cầu nối gắn kết các DN với các đơn vị cảng , hải quan và ngân hàng lại với nhau , trao đổi tâm tư , nguyện vọng và giải đáp những vướng mắc trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hóa nhằm mục đích đem lại hiệu quả, lợi nhuận ngày càng cao cho DN…”

Theo: Vietnam Logistics Review.