Phát triển chuỗi cung ứng rau quả

(Vietnam Logistics Review) 2014 là năm ghi dấu ấn mạnh mẽ của ngành rau quả VN khi lần đầu tiên lọt vào danh sách các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD (cụ thể là 1,47 tỷ USD). Tuy nhiên, chuỗi cung ứng rau quả VN hiện vẫn còn nhiều hạn chế nên giá trị gia tăng thấp và chưa bền vững.

CHUỖI CUNG ỨNG RAU QUẢ VN

Chuỗi cung ứng rau quả VN có sự tham gia của các thành viên cơ bản như nông dân trồng rau quả, thương lái thu gom, người bán buôn, DN chế biến, người xuất khẩu, người bán lẻ, khách hàng nội địa và quốc tế.

Sản xuất rau quả

Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến hết năm 2014, diện tích rau quả cả nước đạt khoảng 1.650 nghìn ha; trong đó diện tích rau khoảng 850.000 ha, sản lượng 14,5 triệu tấn và diện tích cây ăn quả trên 800.000 ha, sản lượng trên 7,5 triệu tấn. Diện tích và sản lượng rau quả phân bố chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL, Đông Nam bộ và Bắc Trung bộ. Trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng sản xuất rau lớn nhất, còn khu vực ĐBSCL là vùng sản xuất quả chủ yếu của cả nước.

Những sản phẩm rau quả mà thị trường có nhu cầu cao thì VN cũng có ưu thế cạnh tranh trong sản xuất như: mặt hàng rau quả tươi (thanh long, bưởi, xoài, vải, chôm chôm, bắp cải, cà chua, dưa chuột, các loại đậu, rau gia vị…); rau quả chế biến (dứa, vải, ngô, cà rốt, hành, gấc…); rau quả chiên giòn (mít, khoai, chuối…).

Tuy vậy, sản xuất rau quả của VN chủ yếu do nông dân tiến hành mang tính cá thể, tự phát nên có quy mô nhỏ lẻ, phân tán, giá thành cao, chất lượng thấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa lớn, khó khăn trong chuyển giao khoa học kỹ thuật mới, khả năng cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực. Diện tích rau quả được áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGap, GlobalGap,…) hoặc theo hướng an toàn còn thấp, chỉ chiếm khoảng 5% tổng diện tích trồng trọt. Việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan luôn là nguyên nhân chính dẫn đến không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng đến thương hiệu rau quả VN trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Chẳng hạn như, năm 2012, các lô hàng rau quả của VN nhập khẩu vào EU đã bị cảnh báo về mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm: rau thơm nhiễm vi sinh vật (Salmonella, Ecoli…); Gia vị có độc tố nấm mốc (Ochratoxin A); rau và quả tươi có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (Carbendazim), nhiễm vi khuẩn (Campylobacterpp., Clostridium)… Một điểm hạn chế nữa là sự cộng tác giữa người trồng rau quả và các DN chế biến, bán buôn, bán lẻ thông qua hợp đồng tiêu thụ còn ít mà chủ yếu do người trồng tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình.

Thu hái, bảo quản và chế biến rau quả

Hoạt động thu hái, phân loại, đóng gói và bảo quản rau quả vẫn chủ yếu được tiến hành theo phương thức thủ công. Thiết bị và công nghệ bảo quản còn thiếu và lạc hậu; cước phí vận chuyển rau quả cao. Những tồn tại đó khiến cho tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lên tới 20-25%, chất lượng rau quả thấp, giá thành cao. Thêm vào đó, việc sử dụng các hóa chất bảo quản chưa được kiểm soát chặt chẽ, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.

Ở khâu chế biến rau quả, cả nước hiện có trên 100 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất 300.000 TSP/năm. Ngoài ra còn có hàng ngàn cơ sở chế biến quy mô nhỏ như sấy vải, nhãn, muối dưa chuột… Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở chế biến rau quả không đủ nguyên liệu sản xuất, công suất thực tế trung bình chỉ đạt khoảng 30%. Rau quả chế biến sâu chỉ chiếm khoảng 10% và chủ yếu gồm các loại như đóng hộp, đông lạnh, pure, cô đặc, nước quả, chiên sấy, muối… Trong số đó, sản phẩm đóng hộp chiếm đến 50%, tiếp theo là sản phẩm cô đặc và đông lạnh.

Tiêu thụ rau quả

Rau quả VN chủ yếu được tiêu thụ trong nước ở dạng tươi, với tỷ lệ khoảng 90%; số còn lại được dùng để chế biến và xuất khẩu. Ở thị trường trong nước, rau quả được tiêu thụ thông qua hệ thống các chợ truyền thống, siêu thị, cửa hàng, bán rong, trong đó chợ là hình thức phổ biến và chủ yếu nhất. Mức tiêu thụ rau quả bình quân trên thị trường nội địa hiện nay là 78kg/người/năm và dự báo con số này sẽ tăng trưởng khoảng 10%/năm.

Về thị trường xuất khẩu, hiện sản phẩm rau quả VN đã có mặt trên 60 nước và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu rau quả VN liên tục tăng, năm 2012 mới chỉ đạt 829 triệu USD nhưng đến năm 2014 đạt 1,47 tỷ USD (trong đó gần 90% là quả).

Thị trường tiêu thụ lớn nhất các loại rau quả của VN vẫn là Trung Quốc với 29,22% trong tổng kim ngạch, đạt 435,74 triệu USD, tăng 36,19% so với năm 2013. Tiếp sau là thị trường Nhật Bản với 75,03 triệu USD, chiếm 5,03%, tăng 22,55%. Xuất khẩu sang Mỹ đạt 60,74 triệu USD, chiếm 4,07%, đạt mức tăng 18,05%. Ngoài những thị trường truyền thống trên, rau quả VN cũng có mặt ở nhiều thị trường mới như Hồng Kông, UAE, Hà Lan… Một tín hiệu khả quan từ thị trường hết sức khó tính là Mỹ mới đây đã chấp nhận cho phép nhập khẩu nhãn của VN. Tháng 12.2014, nhãn VN xuất khẩu sang Mỹ thành công cả bằng đường hàng không và đường biển. Sắp tới, Mỹ còn xem xét cho phép nhập khẩu vải, táo và xoài của VN.

Bên cạnh những thành công đó, xuất khẩu rau quả của VN còn bộc lộ nhiều vấn đề. Chẳng hạn, việc xuất khẩu rau quả sang thị trường lớn nhất là Trung Quốc chủ yếu lại qua đường tiểu ngạch nên gặp nhiều khó khăn, rủi ro và không ổn định. Cùng với đó, 5 trường hợp vi phạm an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực phẩm khi xuất khẩu rau quả sang EU cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu và uy tín của mặt hàng rau quả VN trên thị trường quốc tế.

ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG RAU QUẢ VN

Chúng ta có thể nhận thấy, chuỗi cung ứng rau quả của VN tuy đã đạt được một số thành công nhất định nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập khiến cho giá trị gia tăng thấp và chưa bền vững. Do đó, các cơ quan chức năng cùng với những người sản xuất và kinh doanh rau quả cần tìm ra giải pháp phù hợp để phát triển chuỗi cung ứng rau quả VN.

Xác định các sản phẩm rau quả mà thị trường có nhu cầu cao và VN có lợi thế cạnh tranh như: rau quả tươi (thanh long, bưởi, xoài, vải, chôm chôm, bắp cải, cà chua, dưa chuột, các loại đậu rau, rau gia vị…); rau quả chế biến (đông lạnh IQF: dứa, vải, ngô, cà rốt, hành…); pure, cô đặc: gấc, lạc tiên, dứa…; chiên giòn: (mít, chuối, khoai tây…) để tập trung đầu tư phát triển vùng nguyên liệu.

– Rà soát và điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là đối với những loại rau quả chủ lực và có lợi thế để đảm bảo cân đối với khả năng tiêu thụ, tránh việc mở rộng tự phát và phát triển nóng vượt tầm kiểm soát. Đẩy mạnh chuyển đổi đất trồng lúa khó tưới sang trồng các loại rau quả chủ lực, có thị trường và phục vụ chế biến.

– Đánh giá giống, chất lượng giống và các cây đầu dòng; quản lý tốt cây giống, nguồn gen quý để chọn lọc, lai tạo giống tốt cung cấp cho sản xuất.

– Tổ chức sản xuất rau quả theo chuỗi với quy mô lớn; sử dụng giống mới, kỹ thuật thâm canh nâng cao năng suất, chất lượng, áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGap, GlobalGap…); gắn kết các DN chế biến, bảo quản, xuất khẩu với vùng nguyên liệu.

– Đầu tư công nghệ, thiết bị bảo quản rau quả tiên tiến (chiếu xạ, xử lý bằng nước nóng, bảo quản trong môi trường khí quyển cải biến, điều chỉnh; kho bảo quản lạnh, bảo quản bằng các loại màng an toàn…) để sản phẩm đáp ứng được yêu cầu chất lượng của các thị trường khó tính (Nhật, Mỹ, EU…).

– Xúc tiến và kêu gọi đầu tư trong nước và liên doanh, liên kết với các DN nước ngoài để xây dựng các khu công nghệ cao cho sản xuất, chế biến và bảo quản rau quả. Nâng cấp, hiện đại hóa các dây chuyền chế biến, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao, để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng rau quả chế biến.

– Áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến (HACCP, ISO 22000,…) để sản phẩm rau quả đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm.

– Chú trọng xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu cho các sản phẩm rau quả chủ lực của VN; thực hiện tốt các cam kết với ASEAN, WTO, các Hiệp định Bảo vệ và kiểm dịch thực vật của các nước nhập khẩu nông sản.

– Phát triển, mở rộng thị trường nội địa, nhất là các khu du lịch, các khu đô thị, khu dân cư lớn. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, giữ vững các thị trường lớn, truyền thống và mở rộng các thị trường Đông Âu, Trung Đông, Nga, Ấn Độ…

ThS. Trần Thị Thu Hương

Thị trường tài chính chuỗi cung ứng tăng trưởng khắp thế giới

(Vietnam Logistics Review) Trên toàn cầu, thị trường tài chính chuỗi cung ứng (SCF) đang được mở rộng phát triển. Một báo cáo mới từ Nhà xuất bản BCR, một hãng chuyên cung cấp tin tức về các ngành công nghiệp tài chính, ước tính mức tăng trưởng ở ngành này sẽ đạt 30% mỗi năm. Nghiên cứu từ BCR cho thấy thị trường này có thể mang giá trị đến 43 tỉ Euro đối với mức quỹ đang được sử dụng.

Tài chính chuỗi cung ứng, một ngành đã từng được những ngân hàng lớn đánh giá khá cao, đang dần bị thu nhỏ lại, theo từng vùng và khu vực trong nước cung cấp dịch vụ này. Việc hoàn thiện đang có tiến triển khi nhiều người tham gia sân chơi này hơn, từ đó đặt áp lực giảm giá. Anil Walia, người đứng đầu ngành tài chính chuỗi cung ứng tại Ngân hàng Hoàng gia Scotland, cho các nhà nghiên cứu BCR biết rằng ông dự đoán xu hướng này sẽ tiếp tục tìm kiếm những thị trường mới hơn. “Cho dù chúng tôi có thể cung cấp ở mức độ ngân hàng ổn định, việc này cũng khá khó khăn. Nếu không thể đáp ứng, cả thị trường có thể có chút chấn động trong 2 năm tới”, ông Walia chia sẻ.

Công nghệ là một xu hướng thay đổi lớn việc cung cấp tài chính cho các ngân hàng và chuỗi cung ứng. Việc sử dụng cả hai công nghệ điện toán đám mây và hóa đơn trực tuyến giúp người cho vay có tầm nhìn sâu hơn vào tiềm năng trước mắt. Hóa đơn trực tuyến cho các nhà cung cấp khả năng theo dõi rõ hơn về các mô hình mua hàng và khả năng tài chính của một số DN tìm nguồn tài chính. Thêm vào khả năng theo dõi thời gian thực của hệ thống điện đám mây và tài chính giúp người dùng có thể truy cập ngay lập tức dữ liệu giao dịch. Cởi mở và minh bạch tài chính giúp các nhà cung cấp tài chính sở hữu một bộ hồ sơ rủi ro về thực tế và loại bỏ rất nhiều rủi ro trong quá trình tài trợ chuỗi cung ứng. Công cụ điện tử cũng mở ra cơ hội mới cho ngành kinh doanh, tài chính như tính toán trước khi xuất hàng. Tăng sự quan tâm cho các công cụ điện tử xung quanh chuỗi cung ứng, như hệ thống purchase-to-pay, giúp ngân hàng có cái nhìn rõ ràng hơn vào khả năng chi trả.

Tăng trưởng tổng thể về ngành tài chính chuỗi cung ứng dự kiến sẽ rất mạnh mẽ. Theo từng khu vực, mỗi thị trường được dự đoán sẽ có mức độ khác nhau của sự phát triển và những thách thức đặc biệt cho mỗi vùng.

CHÂU Á

Châu Á là thị trường SCF trẻ nhất, được dự kiến rằng sẽ có sự tăng trưởng cao nhất lên đến 50%. Những lĩnh vực tăng trưởng hàng đầu bao gồm ngành bán lẻ, điện tử, dệt may và hàng tiêu dùng. Shivkumar Seerapu, Trung tâm tài chính thương mại châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Giao dịch toàn cầu tại Deutsche Bank, nêu bật sự quan tâm của cả các ngân hàng và những lĩnh vực khác của công ty trong việc khám phá ngành tài chính chuỗi cung ứng. Đặc biệt, các tập đoàn đa quốc gia có nhà máy tại khu vực đang đẩy mạnh yêu cầu.

Seerapu cũng tập trung vào các nhu cầu giáo dục. Trong khi các tập đoàn đa quốc gia lớn nhận thức tầm quan trọng của tài chính chuỗi cung ứng, rất nhiều hãng không biết ngành này có thể giúp các DN địa phương như thế nào. Trong các thị trường như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan, khái niệm vẫn chỉ mang tính tương đối. Dù khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, đây cũng là thị trường có mức đầu tư kinh phí thấp nhất. Bản báo cáo ước tính giá trị của thị trường chỉ khoảng 6 tỷ đến 10 tỷ Euro (6.5 đến 11 tỷ USD) trong năm nay.

CHÂU MỸ

Khu vực này được hưởng những lợi ích từ việc là nhà của ba thị trường tài chính chuỗi cung ứng đã phát triển: Hoa Kỳ, Canada và Mexico. Mỹ có giá trị quỹ chuỗi cung ứng lớn nhất trong cả ba với 22 tỷ Euro (24 tỷ USD). Về mặt nhận thức, giáo dục và phát triển, đây là khu vực đi đầu. Nhờ vào thị trường tiên tiến của mình, châu Mỹ sẽ có tốc độ tăng trưởng khá chậm vào năm nay. BRC ước đoán rằng mức phát triển chỉ đạt 15-25%, thấp nhất trong tất cả các khu vực được khảo sát.

Quản lý biên tập của báo cáo năm 2015, Eugenio Cavenaghi, tin rằng các cấp độ tiếp theo của sự phát triển ở châu Mỹ sẽ yêu cầu các ngân hàng trong lĩnh vực tài chính chuỗi cung ứng làm việc chăm chỉ hơn. Thị trường trong nước của khu vực là một trong những thị trường bão hòa nhất. Cơ hội tăng trưởng lớn nhất sẽ được tìm thấy ở quốc tế – nơi mà các nhà cung cấp ở đây khá lạ lẫm.

CHÂU ÂU, TRUNG ĐÔNG VÀ CHÂU PHI

Được kết hợp giữa các thị trường lớn tại Vương Quốc Anh, Liên minh châu Âu và các thị trường mới nổi ở châu Phi, khu vực này đang phải đối mặt với chiến lược tiên tiến hơn và khó khăn ngày càng nhiều. Việc phân chia được thấy rõ hơn từ các phương diện tiếp cận khác nhau của ngân hàng. Trên khắp châu Âu, các ngân hàng đang tập trung vào những mảng cao cấp của thị trường, đặc biệt kén chọn khi làm việc với nhà cung cấp. Tại khu vực Bắc Phi và Trung Đông, ngân hàng đang dần chuyển hướng sang việc xâm nhập thị trường các DN vừa và nhỏ. Nhìn chung, khu vực sẽ đạt mức phát triển khoảng 15-30%, với tiềm năng tăng trưởng lên thành một thị trường trị giá 17 tỉ Euro (18 tỉ USD).

Lãi suất và nhu cầu về ngành tài chính chuỗi cung ứng ngày càng rõ rệt. Đồng thời, còn rất nhiều việc cần phải thực hiện trong điều kiện tối đa hóa sức tăng trưởng và nâng cao nhận thức từ thị trường. Các DN cần nguồn vốn lưu động, đặc biệt trong thời kì cho vay chậm chạp.

 Theo: VietNam Logistics Review.

Giải phóng hàng hóa tồn đọng tại cảng biển

(Vietnam Logistics Review) Cho đến nay, việc giải quyết hàng hóa tồn đọng tại cảng biển chưa thu được hiệu quả rõ rệt, chỉ chiếm khoảng 15% tổng số hàng hóa container đang tồn đọng tại cảng biển. Tính đến ngày 15.3.2015, số lượng hàng hóa tồn đọng chủ yếu tại khu vực cảng biển Hải Phòng là 5.176 container (trong đó, cảng Hải Phòng 1.068 container; cảng Nam Hải 770 container; cảng Đoạn Xá 783 container…); khu vực cảng biển Quảng Ninh 52 container; Đà Nẵng 99 container; TP.HCM 177 container, 1.323 kiện…;

Hàng hóa tồn đọng tại cảng biển chủ yếu thuộc loại hàng tạm nhập, tái xuất, nhập máy móc thiết bị tạo tài sản cố định, nhập kinh doanh là các loại hàng cao su, lốp cao su đã qua sử dụng; quần áo đã qua sử dụng; phế liệu; thiết bị điện đã qua sử dụng; hàng điện tử đã qua sử dụng, thực phẩm đông lạnh, máy móc, dây chuyền thiết bị…

GIẢI QUYẾT HÀNG HÓA TỒN ĐỌNG

Trong quá trình thực hiện giải quyết hàng hóa tồn đọng nhiều năm trở lại đây, mặc dù Chính phủ, Bộ GTVT, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan đã quyết liệt và có rất nhiều các văn bản hướng dẫn nhưng đến nay việc xử lý vẫn còn nhiều bất cập và không giải quyết được được dứt điểm. Hàng hóa tồn đọng tại cảng biển với số lượng ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp và thời gian tồn đọng rất lâu, có container kéo dài đến 5 đến 6 năm vẫn chưa được xử lý. Điều này, gây khó khăn, thiệt hại rất lớn cho các DN cảng biển, hãng tàu, lãng phí tài sản cho nhà nước và làm ô nhiễm môi trường.

Các DN cảng biển, hãng tàu biển cũng đã có rất nhiều văn bản kiến nghị lên cơ quan chức năng, cơ quan hải quan khu vực đề nghị giải quyết hàng hóa tồn đọng. Cảng Hải Phòng đã chủ động có cơ chế miễn một phần hoặc toàn bộ chi phí lưu kho bãi, nâng hạ, bảo quản nhưng cũng chỉ xử lý được khoảng 318 container.

Sau khi thành lập tổ công tác và các cơ quan quyết liệt xử lý mới giải phóng được 780 container chiếm khoảng 15% tổng số hàng hóa đang tồn đọng tại cảng biển.

NHỮNG TỒN TẠI BẤT CẬP

Việc giải quyết hàng hóa tồn đọng được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành khác nhau như: hàng hải, hải quan, thương mại…). Trong đó, Thông tư số 203/2014/TT-BTC thay thế Thông tư số 15/2014/TT-BTC hướng dẫn xử lý hàng hóa tồn đọng trong khu vực giám sát hải quan có hiệu lực kể từ ngày 05.02.2015 trên 01 tháng chưa được triển khai quyết liệt và đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan nên việc giải phóng hàng hóa tồn đọng chưa có kết quả rõ rệt.

Đặc biệt, liên quan đến xác lập quyền sở hữu nhà nước đối với hàng hóa tồn đọng, trình tự thực hiện bán đấu giá chưa quy định quyền và nghĩa vụ các bên và nhiều vấn đề liên quan khác như theo Khoản 3 Điều 19 của Thông tư 203/2014/TT-BTC (cũng được quy định tại Khoản 3 Điều 33 của Thông tư 15/2014/TT-BTC) quy định trường hợp chưa có nguồn kinh phí để thực hiện chi trả Hội đồng tạm ứng kinh phí từ tài khoản tạm giữ, dự toán ngân sách thường xuyên của cục hải quan hoặc của DN quản lý hàng hóa tồn đọng để thực hiện chi trả từ nguồn ngân sách là một trong những nguyên nhân chính làm chậm quá trình thanh lý hàng hóa tồn đọng.

Ngày 07.9.2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan. Tuy nhiên, vẫn tồn tại số lượng lớn hàng hóa tồn đọng tại cảng biển đa dạng về chủng loại, tồn đọng qua nhiều thời kỳ thuộc phạm vi điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại các thời điểm khác nhau, nội dung chưa thống nhất rất phức tạp và mất thời gian.

Trường hợp các DN tiếp tục muốn nhận hàng hoặc làm thủ tục tái xuất nhưng lại thiếu giấy phép của Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc giấy phép hết hiệu lực cũng cản trở việc thanh lý hàng. Ngoài ra, năng lực tiêu hủy đối với hàng hóa không còn giá trị sử dụng hoặc đối tượng buộc tiêu hủy như: phế thải nhựa, hàng đông lạnh… rất hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chi phí tiêu hủy cao…

KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Thực hiện văn bản số 80/TB-BGTVT ngày 02/02/2015 của Bộ GTVT về thông báo kết luận của Bộ trưởng Đinh La Thăng tại cuộc họp kiểm điểm công tác rà soát, xây dựng, triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, các đề án tháng 01.2015 về việc xử lý hàng hóa tồn đọng tại cảng biển, ngày 06.3.2015, Cục Hàng hải VN đã tổ chức họp giải quyết hàng hóa container tồn đọng tại cảng biển.

Để kịp thời có biện pháp xử lý hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật theo chỉ đạo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại văn bản số 1064/VPCP-KTTH ngày 09.3.2015 và hạn chế tình trạng hư hỏng đối với hàng hóa, giảm thiệt hại cho DN cảng, giải phóng container rỗng cho chủ tàu, gây lãng phí tài sản của nhà nước; đồng thời, để tránh hàng hóa để lâu làm ô nhiễm môi trường và tránh các trường hợp tiếp diễn tồn đọng hàng hóa tại cảng biển, Cục Hàng hải kiến nghị Bộ GTVT:

– Thành lập Tổ công tác liên ngành và giao Cục Hàng hải VN chủ trì, phối hợp với các cơ quan như: Vận tải, Pháp chế (Bộ GTVT); Tổng Cục Hải quan VN (Bộ Tài chính), Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Tổng cục Môi trường, VCCI… nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý hàng hóa tồn đọng tại cảng biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải 2005 (Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16.5.2006 của Chính phủ về việc xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển) và Luật Hải quan năm 2014 (Thông tư số 203/2014/TT-BTC) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan nhằm hướng dẫn DN cảng biển, hãng tàu biển, đại lý tàu biển nước ngoài, giảm thiểu tồn đọng container tại cảng biển và chủ động tái xuất hàng hóa ra khỏi lãnh thổ VN.

– Chỉ đạo Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy VN, Tổng Công ty Hàng hải VN đề xuất phương án xử lý 183 container đang tồn đọng tại Cảng Hải Phòng về xử lý hàng hóa tồn đọng của các Tổng Công ty Vinalines và Vinashin tại các cảng trên địa bàn Hải Phòng và hướng dẫn của Tổng cục Hải quan VN tại công văn số 15428/TCHQ-GSQL ngày 30/12/2014.

– Có ý kiến với Bộ Tài chính sớm thống nhất với các bộ, ngành liên quan đề nghị Tổng Cục Hải quan phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện giải quyết hàng hóa tồn đọng theo quy định của Thông tư số 203/2014/TT-BTC ngày 22.12.2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để thực hiện giải quyết số hàng hóa tồn đọng tại cảng biển hiện nay và giảm số lượng hàng hóa tồn đọng trong thời gian tới.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Doanh nghiệp trước Cam kết WTO về logistics

(Vietnam Logistics Review) Theo cam kết gia nhập WTO, VN sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, Logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại VN. Điều này đặt DN VN trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà.Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, từ sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các DN logistics.

THÁCH THỨC CỦA DN LOGISTICS VN

Các DN logistics của VN thường có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hàng hóa – dịch vụ thiếu sức cạnh tranh, hoạt động lại manh mún, kinh doanh còn theo kiểu chụp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh, thi nhau hạ giá dịch vụ để giành được hợp đồng và thường là hạ giá thành thuê container, điều này chỉ có các DN trong nước bị thiệt, còn DN nước ngoài là những người chủ tàu sẽ đóng vai trò ngư ông đắc lợi. Một thực tế khác là trong khi các DN của VN còn đang mãi “đá nhau” thì các tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới như APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics, NYK Logistics…, những tập đoàn hùng mạnh với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước.

Các DN logistics tại VN hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của VN hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất.

Hiện nay, các DN VN phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo, đào tạo…, chi phí cho giao nhận, kho vận còn chiếm tới 20% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ vào khoảng 8-2%. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa của  DNVN so với DN nước ngoài vốn đã rất mạnh. Tình trạng thiếu vốn cũng là thách thức lớn nhất đối với DNVN.

MỘT SỐ GỢI Ý CHO DN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS VN

Trong điều kiện thực hiện đầy đủ các cam kết về dịch vụ logistics theo quy định của WTO chắc chắn sẽ là một thử thách lớn cho các DN kinh doanh dịch vụ logistics của VN. Sự cạnh tranh vốn lợi thế đã nằm trong tay DN nước ngoài thì nay lại càng trở nên khó khăn hơn cho các DNVN. Khi các quy định về giới hạn điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics của các DN nước ngoài tại VN được dỡ bỏ. Để hạn chế được phần nào những khó khăn, chúng tôi gợi ý một số yêu cầu mà DN kinh doanh dịch vụ logistics của VN cần chú trọng như sau:

Thứ nhất, cần tăng độ bao phủ trên phạm vi toàn cầu: Độ bao phủ của các DN logistics VN chỉ trong phạm vị nội địa hoặc một vài nước trong khu vực. Các DN VN phần lớn là DN “sinh sau đẻ muộn” so với rất nhiều công ty nước ngoài vốn có lịch sử phát triển từ lâu đời như APL với kinh nghiệm trên 100 năm, Maersk gần 100 năm… Chính vì thế, các công ty này có độ bao phủ rộng lớn trên toàn cầu. Ví dụ như APL Logistics với gần 100 quốc gia, Maersk Logistics bao phủ 60 quốc gia, Exel bao phủ 60 quốc gia. Chính vì vậy, nhìn từ ưu điểm độ bao phủ rộng của các công ty logistics lớn, chúng ta cần rút ra bài học và tích cực mở rộng phạm vi hoạt động và độ bao phủ mới có thể đáp ứng nhu cầu logistics trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ hai, cần đa dạng hóa các dịch vụ logistics, đặc biệt là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao: Phần lớn các DN VN chỉ tập trung vào khai thác những mảng nhỏ và thị trường ngách trong dịch vụ logistics, phổ biến là hình thức giao nhận vận tải. Trong chuỗi logistics hiện đại, các công ty logistics lớn như Maersk Logistics, APL Logistics, P&O Nedlloyd Logistics… đang cung cấp cho khách hàng của họ rất nhiều dịch vụ đa dạng với giá trị gia tăng cao. Thời gian tới các DN VN cần phải tập trung phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển dịch vụ logistics theo hướng 3PL (dịch vụ trọn gói, tích hợp); thêm nhiều giá trị gia tăng phục vụ khách hàng.

Thứ ba, cần nâng cao năng lực cạnh tranh, để có thể tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu: trong quan hệ thương mại quốc tế, phần lớn các nhà xuất khẩu của VN chủ yếu là xuất khẩu hàng theo điều kiện FOB, FCA trong Incoterms (nghĩa là người bán chỉ cần giao hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng theo qui định là hết trách nhiệm). Như vậy, quyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và phần lớn người mua sẽ chỉ định một công ty nước họ, hoặc một đối tác lâu dài của họ để thực hiện điều này. Và các công ty logistics của VN sẽ là người ngoài cuộc. Thực tế này yêu cầu các DN logistics VN cần nâng cao tính cạnh tranh và khả năng đàm phán để có thể tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu trong đó VN là đối tác gia công hoặc
sản xuất.

Thứ tư, ứng dụng CNTT vào hoạt động kinh doanh của DN: Nhìn chung việc ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động logistics của DNVN vẫn còn kém xa so với các công ty logistics nước ngoài. Chính vì vậy DN dịch vụ của chúng ta cần hết sức chú trọng tới vấn đề này.

Thứ năm, sự liên kết giữa các DN dịch vụ logistics VN. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với các DN VN trong tình hình hiện nay. Vì thực tế các DN logistics của VN hoạt động còn manh mún, thiếu hẳn sự liên kết, hợp tác cần thiết. Trong xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài, mỗi DN cần tập trung vào thế mạnh của mình và sẽ thuê ngoài các dịch vụ không phải là thế mạnh. Vì thế, tính liên kết và hợp tác trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đã đến lúc các DN logistics VN cần liên kết phối hợp để có thể cung ứng ra thị trường một chuỗi các dịch vụ logistics cho khách hàng. Một công ty giao nhận có thể liên kết với một công ty kho bãi, công ty vận tải, công ty môi giới và công ty hàng không để tạo thành một chuỗi liên kết chặt chẽ.

Thực hiện đồng bộ các yêu cầu này là việc cần làm ngay của các DN kinh doanh dịch vụ logistics của chúng ta nếu không muốn miếng “bánh ngon” bị các DN nước ngoài chiếm lấy, còn DNVN chỉ còn là những người làm công, nhường sân chơi cho các “đại gia logistics nước ngoài” vì không đủ năng lực.

ThS. Đoàn Ngọc Minh
Theo: Vietnam Logistics Review.

Hải Quan Quảng Trị 25 năm dấu ấn một thế hệ

(Vietnam Logistics Review) Lịch sử 25 năm của Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị là một quá trình cải cách – phát triển – hiện đại hóa hải quan gắn liền với công cuộc đổi mới, hội nhập của đất nước và quê hương Quảng Trị anh hùng.

Ngay sau khi được thành lập (08/01/1990), Cục Hải quan Quảng Trị (HQQT) bước vào công cuộc đổi mới toàn diện của ngành và triển khai thực hiện Pháp lệnh HQ. Trước yêu cầu hội nhập của đất nước, cùng với toàn ngành, đơn vị phải đổi mới về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục HQ, cải tiến quy trình nghiệp vụ theo hướng đơn giản, thuận lợi. Đặc biệt, từ khi Luật HQ Việt Nam ra đời năm 2001 đến nay, Cục HQQT đã tập trung đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa HQ. Với sự phấn đấu liên tục, bền bỉ, bản lĩnh và trách nhiệm của một thế hệ lãnh đạo cùng đội CBCC, 25 năm qua, đơn vị đã thu được những kết quả quan trọng. Đó là phương pháp quản lý HQ được chuyển đổi một cách căn bản sang phương pháp quản lý rủi ro dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT). Theo đó, thủ tục HQ được cải cách theo hướng đơn giản, thuận lợi, minh bạch. Dấu ấn đột phá trong công tác cải cách thủ tục HQ ở Quảng Trị là tổ chức thực hiện thành công thủ tục kiểm tra “Một cửa, một điểm dừng” tại cặp cửa khẩu Lao Bảo – Đen-sa-vẳn và vận hành thông suốt Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS ở tất cả các
cửa khẩu.

Công tác cải cách và đổi mới của HQQT đã phát huy hiệu quả rõ nét trong các hoạt động nghiệp vụ HQ. Từ năm 1990 đến nay, đơn vị đã làm thủ tục, giám sát và thông quan thuận lợi, an toàn cho 1,3 triệu lượt phương tiện vận tải và 5 triệu lượt hành khách xuất nhập cảnh (XNC); 11 triệu tấn hàng hóa XNK với trị giá kim ngạch 5 tỷ USD; quản lý trên 6 triệu lượt phương tiện vận tải và 13 triệu lượt hành khách vào, ra Khu kinh tế – thương mại đặc biệt Lao Bảo; thu thuế XNK đạt 6.000 tỷ đồng, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; đấu tranh, phát hiện và xử lý 27 nghìn vụ buôn lậu, trị giá 273 tỷ đồng, là đơn vị dẫn đầu công tác chống buôn lậu tại tỉnh Quảng Trị và là một trong những đơn vị có kết quả chống buôn lậu cao của toàn ngành HQ.

Để đáp ứng yêu cầu quản lý HQ hiện đại, Cục HQQT đã từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật. Đến nay, hệ thống CNTT, phương tiện kiểm tra giám sát cơ bản đã được trang bị đầy đủ, 100% hành lý của trên 2.200 hành khách mỗi ngày qua cửa khẩu Lao Bảo đã được soi chiếu qua máy soi. Đặc biệt, Cục HQQT được UBND tỉnh giao nhiệm vụ thiết kế nhà kiểm tra liên hợp cửa khẩu Lao Bảo và quy hoạch chi tiết hai cửa khẩu Lao Bảo và La Lay. Theo đó, cửa khẩu Lao Bảo được đầu tư xây dựng địa điểm kiểm tra chung phục vụ thủ tục kiểm tra “Một cửa, một điểm dừng” trên diện tích cửa khẩu được mở rộng 12 ha; cửa khẩu La Lay đang được khẩn trương thực hiện các thủ tục cần thiết để xây dựng nhà kiểm tra liên hợp, bãi kiểm tra hàng hóa và các hạng mục dịch vụ khác ngang tầm với cửa khẩu quốc tế. Trụ sở làm việc của Chi cục HQ cửa khẩu cảng Cửa Việt, Chi cục HQ cửa khẩu La Lay, Chi cục HQ cửa khẩu Lao Bảo, Đội Kiểm soát HQ từng bước được xây dựng khang trang, hiện đại và đã hoàn tất các thủ tục cần thiết để thực hiện dự án công trình trụ sở Cục HQQT trong đầu năm 2015.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, HQQT đã luôn chú trọng công tác xây dựng lực lượng và coi đây là yếu tố có tính quyết định. Đảng ủy và lãnh đạo Cục thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống, rèn luyện đội ngũ để nâng cao phẩm chất chính trị; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn để nâng cao trình độ năng lực của CBCC; thực hiện nghiêm túc công tác luân chuyển cán bộ theo định kỳ; quán triệt thực hiện Quyết định số 517 của Tổng cục HQ về chống phiền hà, sách nhiễu, tăng cường liêm chính HQ; trẻ hóa đội ngũ cán bộ quản lý. Trải qua 25 năm, Cục HQQT đã xây dựng được một tập thể tiêu biểu, vững mạnh về mọi mặt; nội bộ đoàn kết tốt với 227 CBCC có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng được yêu cầu quản lý HQ trong tình hình mới.

Điểm nổi bật trong công tác xã hội của HQQT là hoạt động từ thiện nhân đạo, xóa đói giảm nghèo. Bằng nguồn vốn từ quỹ từ thiện, nhân đạo do CBCC toàn đơn vị tự nguyện đóng góp và lợi nhuận từ việc trồng rừng, đơn vị đã nhận phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng; nhận đỡ đầu, nuôi dưỡng các cháu mồ côi; xây dựng nhà tình nghĩa, phòng học mẫu giáo cho con em đồng bào dân tộc ở biên giới; triển khai chương trình xóa đói giảm nghèo tại huyện Đakrông từ nguồn quỹ của Tổng cục HQ, đã xây dựng nhiều trường tiểu học, trường mẫu giáo, trung tâm giáo dục thường xuyên, các công trình thủy lợi, hệ thống đường dây tải điện, xây dựng bản kiểu mẫu La Lay với nhiều nhà ở cho đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Những việc làm thiết thực, cụ thể và thường xuyên trong hoạt động từ thiện, nhân đạo của Cục HQQT đã góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cho hàng ngàn con em đồng bào dân tộc được đến trường. Đây là việc làm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội thiết thực, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vùng khó khăn vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, xây dựng hình ảnh người chiến sĩ HQ nhân ái, nghĩa tình, gắn bó với dân, biết dựa vào dân để hoàn thành nhiệm vụ. Với những thành tích đó, Cục HQQT đã được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen về thành tích trong hoạt động xã hội, từ thiện, được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng bằng khen vì sự nghiệp giáo dục.

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập sâu rộng của đất nước và nhiệm vụ ngày càng nặng nề của ngành HQ, lãnh đạo các cấp của HQQT hiện nay cũng như các thế hệ tiếp theo cần phải nhận thức sâu sắc về những bài học sau đây:

Một là, phải bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp trên, tuân thủ sự lãnh đạo của đảng bộ và chính quyền địa phương.

Hai là, đề cao vai trò của lãnh đạo các cấp, nhất là người đứng đầu phải có tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, trung thực, thẳng thắn, có bản lĩnh và tính quyết đoán để vượt qua những khó khăn; tỉnh táo, nhạy bén nhận định tình hình, lường trước được tình huống, phát hiện những sơ hở, những vấn đề có rủi ro cao trong các chính sách và quy định quản lý của Nhà nước để tập trung quản lý những nhóm công việc, những mặt hàng, những thời điểm nhạy cảm và những CBCC chưa thực sự tự giác… Muốn làm được việc này cần có thông tin cập nhật hàng ngày, đi sâu đi sát, biết lắng nghe và dựa vào dân, phải được dân tin, đội ngũ tín nhiệm; phải có thái độ tiếp thu và xử lý đúng mức, vô tư vì công việc chung.

Ba là, phẩm chất năng lực đội ngũ CBCC là yếu tố quyết định của công cuộc đổi mới, cải cách, phát triển và hiện đại hóa HQ. Do đó, cần chú trọng công tác xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với công tác kiểm tra thanh tra công vụ và công tác thi đua; tiếp tục đào tạo, đào tạo lại với nhiều hình thức, nâng cao tính tự giác học tập, học để biết, học để tự khẳng định mình và học để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; đồng thời, trẻ hóa đội ngũ cán bộ là chìa khóa thành công của cải cách và hiện đại hóa HQ.

Bốn là, xuất phát từ yêu cầu hội nhập và xu hướng phát triển của HQ thế giới, mục tiêu chiến lược phát triển của ngành HQ đến năm 2020 là “Xây dựng HQ Việt Nam thành một tổ chức hiện đại, có trình độ quản lý thuộc nhóm 4 nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á, thủ tục HQ đơn giản, hài hòa, đạt chuẩn mực quốc tế trên nền tảng ứng dụng CNTT, xử lý dữ liệu tập trung và kỹ thuật quản lý rủi ro”, do đó, lực lượng HQ phải đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu, được trang bị và làm chủ kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Năm là, đoàn kết là sức mạnh. Đoàn kết thì sẽ vượt qua được khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ. Muốn vậy, phải thực hiện tốt quy chế dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, với động cơ trong sáng, loại bỏ chủ nghĩa cục bộ, bè phái, xây dựng đội ngũ có tinh thần đoàn kết, sống thủy chung và biết thương yêu nhau.

Để đảm đương nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn mới, Cục HQQT cần phải phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu kém. Theo đó, cần tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện kế hoạch cải cách, phát triển, hiện đại hóa HQQT đến năm 2020 với nhiều giải pháp quyết liệt và đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ, thống nhất, liên tục với tinh thần quyết tâm cao của toàn thể CBCC, trong đó, chú trọng thực hiện các giải pháp có tính đột phá của từng giai đoạn, tập trung xây dựng lực lượng HQ trong sạch, vững mạnh – coi đây là yếu tố quyết định để đạt được các mục tiêu đề ra.

Năm 2015 là năm bản lề để bước vào một nhiệm kỳ mới. Nhiều cán bộ lãnh đạo và công chức đã hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao phó và tự hào, tin tưởng vào một thế hệ lãnh đạo mới và đội ngũ CBCC có trí tuệ, đầy sức trẻ với lòng nhiệt huyết để đưa Cục HQQT tiến lên phía trước.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Vingroup triển khai 1 loạt dự án trong năm 2015, tham gia vào lĩnh vực logistics

null

Theo báo cáo tài chính riêng, lợi nhuận sau thuế quý I/2015 của Công ty mẹ là 2.200 tỷ đồng.

Sáng ngày 23/04/2015 Tập đoàn Vingroup tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2015.

Tại Đại hội, Tổng Giám đốc Vingroup đã báo cáo kết quả kinh doanh năm qua của tập đoàn với kết quả khả quan. Năm 2014, Vingroup đã đạt được kết quả kinh doanh ấn tượng với doanh thu thuần hợp nhất cao nhất từ trước đến nay, đạt 27.724 tỷ đồng tăng trưởng 51%  so với năm 2013. Lợi nhuận gộp từ hoạt động kinh doanh đạt 10.439 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt 3.776 tỷ đồng.

Năm qua Vingroup đã triển khai thêm 2 dự án bất động sản mới là Vinhomes Central Park tại Tp.HCM và Vinhomes Nguyễn Chí Thanh –Hà Nội. Đồng thời, hàng nghìn căn hộ tại 3 dự án là Vinhomes Times City, Vinhomes Royal City và Vinhomes Riverside tiếp tục được bàn giao và ghi nhận doanh thu,lợi nhuận trong năm qua.

Ở lĩnh vực bán lẻ, Vingroup đã khởi công xây dựng nhiều TTTM Vincom ở nhiều tỉnh thành, khai trương TTTM Vincom  Hạ Long, khởi công bệnh viện Vinmec Phú Quốc đồng thời công bố chiến lược đầu tư 10 bệnh viện quốc tế trên khắp cả nước.

Bên cạnh đó, năm 2014 cũng đánh dấu một bước tiến mới của Vingroup vào lĩnh vực bán lẻ bằng việc ra mắt chuỗi siêu thị VinMart.

Đặc biệt, trong năm qua Vingroup bắt đầu khởi động mạnh đầu tư và mảng bất động sản nghỉ dưỡng, trong đó khai trường khu nghỉ dưỡng Vinpearl Phú Quốc, nâng tổng số phòng khách sạn toàn hệ thống lên 1.600 phòng, tăng hơn hai lần so với năm 2013.

Vingroup cũng đã khởi công xây dựng chuỗi biệt thự nghỉ dưỡng Vinpearl Premium tại Phú Quốc, Nha Trang và Đà Nẵng với tổng số 847 căn.

Ông Lê Khắc Hiệp, Phó chủ tịch Vingroup đã trình ĐHĐCĐ về phương án phân chia cổ tức: dự kiến trong quý 2/2015 sẽ chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 1000:258.

Quý 1/2015, Vingroup ước đạt 2.200 tỷ đồng lợi nhuận.

Tại Đại hội, HĐQT và Ban lãnh đạo Tập đoàn Vingroup đã trình ĐHCĐ xem xét và nhất trí thông qua những kế hoạch kinh doanh, đầu tư trong năm 2015.

Theo đó, tiếp tục khai thác hiệu quả các dự án đang hoạt động như chuỗi các khu đô thị Vinhomes, hệ thống trung tâm thương mại vinhom, chuỗi khách sạn Vinpearl và khu giải trí Vinpearl Land, hệ thống giáo dục, bệnh viện.

Triển khai các dự án hiện có Vinhomes Central Park, Vinhomes Nguyễn Chí Thanh, Giai đoạn 2 Times City. Tiếp tục khai thác quỹ TTTM Vincom hiện có, hướng đến mục tiêu sở hữu 30 TTTM với 1 triệu m2 mặt bằng vào cuối 2015.

Đẩy nhanh tiến độ các dự án Vinpearl Premium tại Nha Trang, Phú Quốc, và dự án Vinpearl Resort Ha Long để đưa vào hoạt động đồng thời năm 2015.

Đẩy mạnh việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với thương hiệu VinEco nhằm cung cấp nguồn thực phẩm sạch cho người dân. Theo chia sẻ của Chủ tịch Tập đoàn, Vingroup muốn tạo ra hệ sinh thái toàn diện và toàn vẹn cho mọi khách hàng của Vingroup . Y tế, giáo  dục, nông nghiệp, mua sắm, mọi lĩnh vực đó đều liên quan đến nhau.

Bà Dương Thị Mai Hoa, Tổng Giám đốc Vingroup cho biết, Tập đoàn đã phát hành 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế và niêm yết trên Sở giao dịch Singapore. Tính tới 18/3/2015, các trái chủ  đã chuyển đổi với tổng giá trị là 136,8 triệu USD và còn là 163,2 triệu USD.

Vingroup trình cổ đông thông qua tiếp tục duy trì phong tỏa tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài là 20% tổng số cổ phần của Tập đoàn để phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi trái phiếu quốc tế, trái phiếu phát hành cho Warburg Pincus và các mục đích khác.

Năm 2015, Tập đoàn lên kế hoạch 30.000 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 8% so với thực hiện 2014, kế hoạch lợi nhuận sau thuế là 3.000 tỷ đồng.

Trả lời cổ đông VIC về sự bùng nổ dự án trong năm nay, Chủ tịch Vingroup cho rằng năm vừa qua thị trường BĐS thực sự khởi sắc, thể hiện ở doanh số bán hàng của tập đoàn rất tốt. Đây là thời điểm chín muồi để VIC tung các dự án ra thị trường. Đưa ra thị trường đủ số sản phẩm mà thị trường có nhu cầu không để quá thừa cũng không để thị trường thiếu.

“Doanh số bán hàng vào khoảng 40 đến 60 nghìn tỷ đồng, thừa để đầu tư các dự án đang có, thậm chí giảm được số dư nợ hiện có. Theo đánh giá của tổ chức quốc tế dư nợ của VIC hiện nay là bình thường, chiếm khoảng 30% tổng tài sản.

Một số cổ đông của VIC quan tâm đến vấn để mở rộng đầu tư kinh doanh của VIC sang một số lĩnh vực khác như cảng biển, nông nghiệp, đường sắt,…Việc mở rộng này khiến nhiều cổ đông băn khoăn về những lĩnh vực kinh doanh mới này.

Tuy nhiên, Chủ tịch Vingroup khẳng định, công trình nào tạo ra lợi ích lâu dài cho cổ đông, khách hàng thì Vingroup mới làm. Đối với lĩnh vực cảng biển, hoạt động kinh doanh hiện nay lợi nhuận không cao chỉ khoảng 2-3% nên không hiệu quả. Tuy nhiên, khi VIC tham gia vào lĩnh vực này thì phải tái cấu trúc, thuê chuyên gia nước ngoài để phát triển cơ bản hệ thống Logistics nước nhà, khi đó thì hiệu quả sẽ cao hơn. Nếu làm tốt thì chi phí vận tải sẽ giảm và không chỉ VIC hưởng lợi mà còn toàn bộ thành phần khác tham gia có lợi.

Theo Trí thức trẻ

SÀI GÒN – TP. HỒ CHÍ MINH : BỐN THẬP KỶ ĐẦU TÀU PHÁT TRIỂN KINH TẾ

(Vietnam Logistics Review) 40 năm, ký ức về ngày Giải phóng miền Nam rực rỡ cờ hoa – nhân dân miền Nam và cả nước vỡ òa trong niềm vui hạnh phúc của ngày thống nhất đất nước – độc lập dân tộc. Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) sau bốn thập kỷ vẫn luôn giữ trong mình nhịp sống sôi động của một thành phố trẻ trung và năng động. Là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước.

ĐÔ THỊ THAY ĐỔI

Nhiều người đi xa TP.HCM lâu ngày trở lại đã không giấu được nỗi ngạc nhiên về sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, khu công nghiệp và các khu đô thị vệ tinh…

Sau gần 40 năm tiến hành quy hoạch, đô thị hóa và công nghiệp hóa, dẫu vẫn còn nhiều điều trăn trở, nhưng TP.HCM đã khoác lên mình một sự đổi thay toàn diện, mang dáng vốc của một đô thị văn minh – hiện đại. Từ hạ tầng kỹ thuật đến không gian đô thị. Dự án cải tạo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè ra đời xuất phát từ chủ trương xóa nhà ổ chuột, chỉnh trang đô thị. Hàng ngàn căn nhà ổ chuột được giải tỏa, di dời, nhiều người dân đã thoát khỏi cảnh sống chung với dòng kênh đen. Tuyến đường Điện Biên Phủ được xây lại, các tuyến đường vành đai được hoàn thiện, dự án cải tạo Xa lộ Hà Nội được triển khai, hoàn thành tuyến đại lộ Đông – Tây… đã giúp bộ mặt giao thông thành phố thay đổi, tạo ra một hành lang giao thông rộng lớn từ trung tâm quận 1 tỏa đi, kết nối thông suốt đến tất cả các quận, huyện, các tỉnh thành trong cả nước.

TP.HCM đi đầu trong vấn đề thu hút khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, thành phố thu hút được một nguồn vốn rất lớn. Đầu thập niên 90, trong lúc chưa xây dựng kịp một khách sạn 5 sao, nhà đầu tư nước ngoài đã kéo một khách sạn 5 sao từ Úc về làm khách sạn nổi, phục vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài đến làm ăn và nghỉ ở đây. Dù nguồn vốn đó đa phần ưu tiên cho phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ… chưa tập trung cho lĩnh vực hạ tầng giao thông, giáo dục, hay y tế. Chính vì vậy, bên cạnh việc thí điểm những mô hình đổi đất lấy hạ tầng, thành phố đã mạnh dạn trong vấn đề xã hội hóa đầu tư trong ba lĩnh vực nói trên. Chẳng hạn như việc phát hành trái phiếu đô thị mở rộng đường Nguyễn Tất Thành, quận 4 hay đường Trường Sơn (tức là đường nối vào sân bay Tân Sơn Nhất), và sau này đấu giá đường để khai thác như đường Điện Biên Phủ…

Ấn tượng về bộ mặt đô thị khi cả một khu vực hoang hóa ở Nhà Bè đã biến thành khu đô thị Phú Mỹ Hưng hiện đại bậc nhất cả nước với tuyến đường Nguyễn Văn Linh dài 17km rất đẹp kết nối các khu đô thị liền nhau. Nối theo đô thị Phú Mỹ Hưng, hàng loạt khu đô thị mới khác cũng ra đời. Ở khu vực trung tâm, thành phố cho chỉnh trang, cải tạo các tòa cao tầng dọc theo hai tuyến đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ. Thành phố cũng mạnh dạn cho đầu tư những công trình cao nhiều chục tầng để tạo điểm nhấn cho khu vực trung tâm.

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VỆ TINH

TP.HCM nổi tiếng là đô thị có nhiều kênh rạch. Những năm qua, TP.HCM đã đầu tư hàng nghìn tỉ đồng để xây dựng hàng loạt cây cầu mang tầm quan trọng, góp phần đánh thức tiềm năng kinh tế và làm thay đổi bộ mặt của những vùng đất sình lầy thuở trước. Nằm cách trung tâm thành phố chỉ một con sông hoặc con rạch, các quận 2, 4, 7, 8, 9, Thủ Đức… cách đây 15 năm vẫn còn là những vùng đất lạc hậu, mang dáng dấp của một vùng nông thôn, đời sống người dân thấp… Việc vận chuyển hàng hóa, đi lại của người dân đều đổ dồn trên một số ít cây cầu cũ kỹ được xây dựng từ thời Pháp (cầu Tân Thuận 1, Sài Gòn, Bình Triệu 1,…). Nhưng nay, với những cây cầu đồ sộ mới xây xong như cầu Nguyễn Tri Phương, Chánh Hưng từ quận 5 bắc qua quận 8; cầu Ông Lãnh nối quận 1 – quận 4; cầu Kênh Tẻ nối quận 4 – quận 7 – Nhà Bè; cầu Bình Triệu 2 nối quận Bình Thạnh – Thủ Đức, cầu Phú Mỹ nối quận 2 – quận 7, hầm vượt sông Sài Gòn nối quận 1 – quận 2… và một số cây cầu đang xây dựng (cầu Sài Gòn…) đã đánh thức những vùng đất này vươn mình trỗi dậy. Và cũng chính những cây cầu này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, giao thương, bật dậy tiềm năng kinh tế trên địa bàn, góp phần thúc đẩy nền kinh kế của TP.HCM ngày càng phát triển vững mạnh, luôn giữ vị trí là đầu tàu kinh tế của cả nước.

Sài Gòn nhộn nhịp, nhịp sống luôn hối hả, kể cả ban đêm. Những gì du khách chứng kiến hàng đoàn vừa người và xe trong giờ cao điểm tan trường, tan sở là “độc nhất vô nhị” trên thế giới. Đường phố đông đúc, sự hối hả hiện rõ trên nét mặt mọi người. Số du khách đến Việt Nam ghé qua TP.HCM chiếm tỷ lệ khá lớn. Áp lực này buộc thành phố phải cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Theo quy hoạch phát triển đô thị, đến năm 2025 TP.HCM sẽ trở thành đô thị năng động, có tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững. Vùng trung tâm bao gồm: đô thị hạt nhân TP.HCM, các đô thị vệ tinh độc lập được xác định bán kính 30 km từ trung tâm đô thị hạt nhân TP.HCM (bao gồm TP. Biên Hòa, TP. Thủ Dầu Một), các đô thị vệ tinh phụ thuộc (đô thị mới Nhơn Trạch, đô thị mới Tam Phước (đô thị mới sân bay), và các đô thị mới: Hiệp Phước, Củ Chi, Đức Hòa, Long Thành, Trảng Bom, An Lạc, Nhà Bè; Cần Giờ, Dĩ An – Thuận An và các đô thị vùng phụ cận (bao gồm các đô thị loại 3 – 4 ở phía ngoài vành đai 3 như: Dầu Giây, Vĩnh Cửu, Tân Uyên, Mỹ Phước, Hậu Nghĩa, Bến Lức, Cần Giuộc).

TP.HCM xác định việc phát triển thành phố sẽ theo hướng đa trung tâm, phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh và lấy trung tâm hiện hữu mở rộng sang khu đô thị mới Thủ Thiêm làm trung tâm chính. Các khu đô thị khác được xác định theo bốn hướng. Cụ thể, hướng phát triển về Đông Bắc gắn với huyện Dĩ An (Bình Dương) và TP. Biên Hòa (Đồng Nai), gồm các quận 2, 9 và Thủ Đức. Đây được xem là hướng cửa ngõ của TP.HCM đi các tỉnh miền Trung và miền Bắc, đồng thời cũng là hướng phát triển chính với khu đô thị mới Thủ Thiêm, một trung tâm mới gắn liền trung tâm hiện hữu là quận 1, 3. Chính vì vậy, khu đô thị mới này sẽ được ưu tiên đáng kể trong việc đầu tư hạ tầng, kỹ thuật với các dự án lớn đã và đang thực hiện: hầm, cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, Đại lộ đông – Tây… Một hướng chính khác là phát triển về phía Nam, Đông Nam tiến ra biển gắn với khu Nhà Bè, Bình Chánh, Cần Giờ (TP.HCM), Nhơn Trạch – Long Thành (Đồng Nai). Đây có thể nói là địa bàn có nhiều lợi thế là đất đai rộng nhưng hạ tầng đô thị còn thiếu. Hướng phát triển thứ ba là Bắc, Tây Bắc gắn với Củ Chi, Hóc Môn, dọc quốc lộ 22 – trục xuyên Á nối với tỉnh Tây Ninh và Campuchia. Đây cũng là một trong những cửa ngõ của thành phố nên thời gian qua TP.HCM đã đầu tư hạ tầng giao thông khá nhiều cho khu vực này như đường Trường Chinh, tuyến xuyên Á. Hướng còn lại là Tây Nam dọc quốc lộ 1 trên địa bàn quận Bình Tân và huyện Bình Chánh. So với các khu vực khác, tốc độ đô thị hóa tại đây diễn ra rất nhanh…

TIẾNG HÁT TRÊN “THÀNH PHỐ TRẺ”

Một lễ hội mừng ngày thống nhất đất nước lại đến! TP.HCM vẫn đang nỗ lực xây dựng nâng cấp và cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng biển, nhất là hệ thống cầu vượt bằng thép nhằm giải tỏa ùn tắc giao thông. Trong một phát biểu đầu năm, Chủ tịch UBND TP.HCM ông Lê Hoàng Quân cho biết: sắp tới đây, TP.HCM sẽ tích cực thực hiện di dời hệ thống cảng biển ra khỏi nội thành, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để xây dựng hệ thống cảng biển Hiệp Phước thay thế cụm cảng Sài Gòn. Thành phố sẽ đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống dịch vụ hậu cần logistics cho cảng biển hoạt động hiệu quả như xây dựng đô thị cảng ở phía Nam thành phố, hệ thống kho bãi, đường bộ, đường sắt, khai thác tối đa sân bay Tân Sơn Nhất và chuẩn bị kết nối hạ tầng với sân bay quốc tế Long Thành (Đồng Nai) trong tương lai. TP.HCM đang mở rộng ra bên ngoài không chỉ về không gian, mà còn về quản lý đô thị và liên kết phát triển để hình thành vùng đô thị lớn của cả nước, cũng là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thành phố này trở thành một trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước và là nơi đóng góp nhiều nhất (21,7%) cho GDP của cả nước, cũng như cho ngân sách quốc gia. 16 khu chế xuất và khu công nghiệp ở TP.HCM đã đóng góp rất lớn cho tiến trình công nghiệp hóa không chỉ cho thành phố, mà còn cho khu vực kinh tế phía Nam.

Một mùa xuân mới nữa đã đến với TP.HCM. Trên những đường phố, người xe vẫn qua lại tấp nập. Cửa hàng, siêu thị đông đúc người đi mua sắm. Cao ốc cứ vươn lên trên những vùng đô thị mới. Sài Gòn đang từng ngày chuyển mình đi lên trên mọi lĩnh vực. Nhìn vào sức mua chúng ta dễ dàng nhận thấy sự sung túc và tinh thần lạc quan của người dân thành phố. Giữa những ngày tháng Tư lịch sử đi trên những con đường nhộn nhịp, lại nghe tiếng hát vọng lại: “Thành phố tôi rất trẻ/ Bạn hãy nghe họ hát…”, mà lòng cứ rộn rã, tràn ngập niềm vui. Và tôi thấy rằng, tiếng hát cất lên đã làm cho thành phố thêm sung sức, người dân thêm niềm tin yêu cuộc sống, và tương lai cùng vận hội mới đang mở ra đón chào mọi người.

Ông Vương Đình Huệ – UV tw đảng, Trưởng ban Kinh tế Tw:

“Bài học của TP.HCM đó là vấn đề sản xuất kinh tế hàng hóa, phát triển nhiều thành phần kinh tế, bài học về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra môi trường cạnh tranh tự do và bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Bài học về việc hỗ trợ phát triển DN, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, nâng cao hiệu quả DNNN và phát huy vai trò các công cụ của Nhà nước trong điều tiết phát triển nền kinh tế thị trường… Đó là những vấn đề chúng tôi hết sức quan tâm và chú trọng nghiên cứu không chỉ cho giai đoạn hiện nay, mà cho việc sắp tới thảo luận và hoàn thiện các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc” .

Năm 2014, kinh tế TP.HCM tăng trưởng khá, đạt 9,6%. Năm 2015, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, hiệu quả đầu tư tăng, năng suất các yếu tố tổng hợp đóng góp ngày càng nhiều hơn, thu ngân sách vượt 11% so với dự toán.

Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế đã được xác định không phải là cái đích cuối cùng mà chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu, đó chính là đảm bảo cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhân dân. Điều này, thể hiện rõ qua kết quả của năm 2014: Chương trình giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực, đã mở ra cơ hội cho trên 100.000 hộ nghèo, hộ cận nghèo vay được vốn sản xuất làm ăn và tiếp cận được với các dịch vụ xã hội có chất lượng; đến nay số hộ nghèo còn 1,35%, số hộ cận nghèo còn 2,78%; đã tạo ra việc làm mới cho trên 120.000 người; thu hẹp dần chênh lệch mức sống giữa các nhóm dân cư; chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung thực hiện đồng bộ, bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ nét.

Năm 2014, GDP bình quân đầu người đạt 5.131USD, bằng 2,5 lần so với bình quân cả nước. Dự kiến năm 2015 tiếp tục tăng theo mục tiêu đã đề ra. Như vậy, tốc độ tăng GDP bình quân đầu người cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt 13,52%. Kết quả này thể hiện quan điểm của Đảng lấy con người làm trung tâm, vì con người và cho con người; tăng trưởng kinh tế là điều kiện để tăng thu nhập của dân cư và tăng thu nhập của dân cư sẽ tác động trở lại đối với tăng trưởng kinh tế.

Theo: Vietnam Logistics Review.

 

Châu Phi: Ngôi sao mới của vận tải hàng không đang dần tỏa sáng

(Vietnam Logistics Review) Trong khi Ethiopian Airlines sẽ dễ dàng chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp vận tải hàng không của châu Phi một thời gian, việc đó không ngăn được các nhà hoạt động nhỏ nỗ lực vươn lên chiếm thị phần. Ở miền Bắc châu Phi, Air Algerie đang lập kế hoạch thay thế máy bay chở hàng Lockheed với 2 máy bay 737-700 combis, và có thể đưa phân vùng hàng hóa của mình thành một công ty con tự chủ riêng.

“Air Algeria cần tập trung vào ngành kinh doanh cốt lõi về chuyên chở hành khách của mình, đồng thời cho các ngành dịch vụ khác [hàng hóa, phục vụ và hoạt động trên mặt đất] thêm cơ hội để phát triển”, ông Zohir Houaoui, người đứng đầu bộ thương mại của Air Algerie cho biết. “Ban đầu, họ sẽ là các công ty con, nhưng họ có thể phát triển lên thành mối quan hệ đối tác”.

Tại Libya, hai hãng hàng không thuộc nhà nước Afriqiyah Airways và Libyan Airlines đang có kế hoạch nhằm thúc đẩy các dịch vụ vận tải hàng không của nước này.

Libyan Airlines đang trong vòng đàm phán để thuê một chuyên cơ vận tải và có thể sẽ mua thêm một chiếc máy bay đã qua sử dụng, được dự đoán là chiếc A300-600F. Afriquyah cũng đang lập kế hoạch để lập nên một công ty con chuyên vận chuyển và mua một máy bay vận chuyển hàng hóa. Trong khi đó, Cơ quan Hàng không dân sự Libya (LYCAA) đã cho biết họ muốn biến sân bay Sebha ở phía nam Libya thành một trung tâm hàng hóa.

Tổng giám đốc của LYCAA, Capt Nasereddin Shaebelain, cho biết: “Chúng tôi đang có kế hoạch biến Sebha thành một trung tâm vận tải hàng không, với một khu làng hàng hóa có kho lưu trữ kiểm soát nhiệt độ cho hàng hóa dễ hỏng như thực phẩm và cây cỏ, sau đó sẽ được vận chuyển đến châu Phi”. Tất cả kế hoạch này đều nhằm phục vụ cho đất nước đang trong một nền hoà bình không khá ổn định.

Các hãng có chi phí thấp (LCCs) thường không tập trung vào vận tải hàng không do đường bay ngắn nhiều lần làm hạn chế hiệu suất hoạt động vận chuyển của họ. Tuy nhiên, Tanzania’s Fastjet đã kí kết một thoả thuận với BidAir để vận chuyển hàng hóa trên những chiếc Airbus A319 trên các đường bay nội địa. Fastjet dự định ban đầu sẽ vận chuyển các loại hàng ‘khô’, chẳng hạn như thư từ và báo giấy.

Ở Trung Phi, ECAir của Cộng hòa Congo đã có lượng lưu thông hàng hóa tăng đáng kể. Giám đốc điều hành của hãng này, Fatima Beyina-Houssa, cũng là Chủ tịch Hiệp hội Các hãng hàng không châu Phi (AFRAA) vào năm 2015, nói rằng cô đang cân nhắc xem có nên đầu tư vào một tàu chở hàng để dần làm cầu nối giữa Dubai và châu Âu.

Tại Equatorial Guinea, hãng vận chuyển còn non trẻ Punto Azul cũng đang có kế hoạch tiến vào các hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng cách sử dụng một máy bay ATR 42 hoặc 737 combi. “Tôi đang tìm cách bắt đầu hoạt động ngay sau khi được cấp một chiếc AOC”, Giám đốc điều hành Paul Richards chia sẻ. “Ban đầu chỉ sẽ là một máy bay nhỏ. Chúng tôi đang cố gắng thu hút từ phía châu Âu sử dụng Equatorial Guinea như là một trung tâm, từ đó chúng tôi có thể phân phối hàng hóa của họ trên khắp miền Tây và Trung Phi”, ông nói.

Air Botswana cũng đang tìm cách để vào thị trường vận chuyển hàng hóa. Tổng giám đốc mới của hãng vận chuyển, Ben Dahwa, cho biết: “Chúng tôi đã có một cơ sở phân phối hàng hóa đẳng cấp thế giới tại trung tâm thuộc về cổ đông của chúng tôi”.

Năm ngoái, các cổ đông bắt đầu đấu thầu trung tâm này, và chúng tôi đã giành được thầu và toàn quyền sử dụng trong 5 hay 10 năm tới.

“Vận chuyển hàng hóa là khu vực khá lớn mà chúng tôi đang tìm cơ hối phát triển để mở rộng doanh thu, từ đó chúng tôi kí kết một bản ACMI với công ty Nam Phi SkyClass Aviation, một công ty vận hành chiếc Turbo DC-3”.

Tại Mozambique, giám đốc điều hành của LAM Mozambique Airlines, Marlene Manave, muốn đưa một chiếc Embraer 120 thành máy bay chở hàng nhằm phát triển hướng kinh doanh vận chuyển của LAM. Tuy nhiên, một liên doanh mới đã được thành lập với công ty hậu cần dầu khí Pháp Bolloré và LAM đang có cơ hội sở hữu thêm những máy bay lớn hơn

“Sự biến đổi các chiếc Embraer 120 là một trong những lựa chọn của chúng tôi khi nghĩ đến việc hoạt động vận chuyển hàng hóa, tuy nhiên việc này sẽ cần một máy bay lớn hơn vì chúng tôi sẽ hoạt động cho ngành khai thác khóang sản, một ngành có rất nhiều thiết bị cỡ lớn. Ho đã và đang dùng các máy bay Nga, chiếc Antonov An-26, bay từ Johannesburg đến Pemba vì vậy việc của chúng tôi cũng sẽ tương tự thế”, bà cho biết.

Các đối tác đang tập hợp lại để tạo ra một hệ thống logistics LAM, hệ thống này sẽ xử lý mọi hoạt động vận chuyển hàng hóa trong thân máy bay của LAM. Các luồng hàng hóa chính sẽ di chuyển giữa Maputo và các tỉnh khác, mặc dù LAM Logistics cũng sẽ kết nối giữ Palma với thành phố cảng Pemba, cả hai đều tại Cabo Delgado – một tỉnh cực bắc của Mozambique.

Với châu Phi là một thị trường hấp dẫn như vậy vào lúc này, các hãng hàng không không chở hàng của châu Phi, như Lufthansa và Emirates, sẽ tiếp tục tạo ra một vết lõm khá lớn vào ngành kinh doanh vận chuyển hàng hóa nội địa. Tuy nhiên, những dấu hiệu của sự phát triển và câu chuyện thành công của họ, có nhiều khả năng vào năm 2015 các hãng hàng không châu Phi sẽ gây ra tác động lớn đối với nền kinh tế vận chuyển thế giới.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Logistics điện tử ai sẽ giành ưu thế

(Vietnam Logistics Review) Dịch vụ hậu cần cho các DN thương mại điện tử (TMĐT) là một vấn đề khá nhạy cảm. Thực tế cho thấy trong khi thảo luận xoay quanh kế hoạch kinh doanh, rất ít các DN để tâm tới vấn đề này để xây dựng chiến lược rõ ràng và quy trình chuyên nghiệp.

Các DN thường muốn chuyển công tác này cho bên thứ ba là các DN cung cấp dịch vụ hậu cần, giao hàng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đây là bước quan trọng có thể tạo lợi thế cạnh tranh quyết định cho DN trong việc tìm kiếm khách hàng trung thành.

ÁP LỰC ĐỐI DN BÁN LẺ VN KHI THAM GIA THỊ TRƯỜNG TMĐT

Thực tế cũng cho thấy các dịch vụ hậu cần là thách thức lớn nhất của các DN bán lẻ, nhất là đối với các DN còn non trẻ và chủ yếu phát triển từ các mô hình nhỏ. Thói quen tiêu dùng trực tuyến và thanh toán qua mạng đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng hiện nay rào cản lớn nhất là hệ thống hậu cần. Đối với mô hình kinh doanh TMĐT của các DN bán lẻ lại càng khó khăn hơn vì càng phát triển thì độ phổ rộng của người mua, độ phân tán hàng hóa càng cao và nhỏ lẻ, trong khi mô hình TMĐT đòi hỏi việc giao hàng nhanh chóng, miễn phí và thu tiền tận nơi. Đây chính là những áp lực lớn đối với các DN bán lẻ VN hiện nay khi tham gia thị trường TMĐT.

Về hệ thống vận chuyển – giao nhận, đa số giao dịch TMĐT của các DN bán lẻ là hàng hóa vật lý cần giao nhận trực tiếp. Các DN phải mở rộng địa bàn hoạt động để tiếp cận khách hàng toàn quốc hay quốc tế thì mới phát huy được lợi thế quan trọng của TMĐT là không giới hạn về địa lý và thời gian hoạt động. Các DN VN còn khá non trẻ vẫn chưa tích lũy đủ tiềm lực tài chính để phát triển hệ thống vận chuyển, kho hàng riêng thực sự chuyên nghiệp, dẫn đến đa số phải dựa vào các công ty vận chuyển thứ ba. Nhưng đa số các công ty này tại VN chỉ tập trung ở một số tỉnh thành lớn, việc vận chuyển đến các tỉnh xa, dân số ít còn bỏ ngỏ.

Việc miễn phí vận chuyển cũng khó thực hiện đối với các DN bán lẻ. Thói quen của người tiêu dùng VN cũng như yếu tố cạnh tranh trong ngành TMĐT buộc các DN áp dụng hình thức miễn phí vận chuyển. Xu thế cạnh tranh càng tăng, áp lực này sẽ trở thành tiêu chí đương nhiên khi khách hàng mua hàng trực tuyến. Chi phí này sẽ được trừ trực tiếp vào lợi nhuận của DN, khách hàng hưởng lợi. Tuy nhiên về tổng thể thị trường sẽ làm yếu tính cạnh tranh của ngành TMĐT.

Dịch vụ logistics chỉ hiệu quả khi có nhiều đơn hàng để có chi phí thấp, lúc đó nhà cung cấp tự đầu tư hay thương lượng với đối tác đều dễ dàng. Các công ty vận chuyển lớn thậm chí không làm việc với các công ty có lượng giao dịch nhỏ. Đặc trưng của lĩnh vực TMĐT còn là giao hàng và thu tiền tận nơi. Điều này không được các công ty vận chuyển mong muốn vì độ phức tạp và tính rủi ro của nó, do đó việc chọn lựa đối tác vận chuyển, giao hàng càng khó khăn hơn. Đối với các DN bán lẻ tham gia vào thị trường TMĐT, việc thực hiện giao hàng và thu tiền tận nơi (COD – Cash on dilevery) vẫn là phổ biến bởi việc thanh toán khó có thể là 100% đối với giao dịch trực tuyến. DN phải xây dựng đội ngũ giao hàng riêng tại các thành phố lớn và kết hợp với các đơn vị vận chuyển để hàng hóa đến được toàn quốc và hầu hết đều phải mở hệ thống kho để đảm bảo lượng hàng hóa cung ứng. Tuy nhiên, về lâu dài việc có được hệ thống giao nhận, kho vận riêng trên cả nước sẽ ngoài tầm với của
nhiều DN.

Chi phí logistics đắt đỏ cũng đang là vấn đề lớn đối với các DN bán lẻ. Tuy nhiên, ngoài áp lực về chi phí cao khi sử dụng các dịch vụ vận chuyển chuyên nghiệp, các DN bán lẻ còn gặp khó khăn trong việc tìm đối tác đáp ứng yêu cầu về chất lượng và độ phủ, giảm rủi ro về trễ đơn hàng hay thất lạc, thái độ phục vụ, vòng xoay tiền mặt chậm… làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh.

Giải pháp tổ chức, quản lý và tối ưu hóa quá trình

Để giải quyết khâu hậu cần, nhiều giải pháp đã được các DN bán lẻ được đưa ra. Trước tiên là phải giúp cho người tiêu dùng quen với việc chấp nhận trả tiền giao hàng. Thực tế thì việc giao hàng miễn phí vẫn được các DN sử dụng như là một công cụ để chinh phục khách hàng. Tuy nhiên, yêu cầu khách hàng trả tiền cho dịch vụ tốt hơn cũng sẽ làm tăng giá trị cho DN. Chiến lược tạo sự khác biệt này cũng là lợi thế cạnh tranh cho DN.

Giải pháp thứ hai là triển khai các biện pháp thay thế cho việc giao hàng tại nhà như là sử dụng các trạm giao hàng hay mở rộng hệ thống cửa hàng. Điều này có thể giúp có thêm khách hàng và khuyến khích khách hàng đến cửa hàng nhận hàng. Giải pháp web-to-store dường như cũng là một giải pháp lý tưởng cho TMĐT. Việc đưa khách hàng trực tuyến đến các điểm bán lẻ để lấy sản phẩm (click & collect) có thể tạo sự kết hợp giữa kênh bán hàng trực tuyến với kênh truyền thống. Tuy nhiên, vấn đề là các DN gặp khó khăn trong việc xây dựng mạng lưới rộng khắp.

Một giải pháp khác nữa là chuyển toàn bộ quá trình cho đơn vị cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp. Dù đắt đỏ hơn nhưng nó cho phép có được sự chuyên nghiệp trong lĩnh vực và tránh những lỗi mà để giải quyết đôi khi chi phí còn cao hơn nhiều. Và để giảm chi phí, một giải pháp được đưa ra là tổng hợp lượng hàng với khối lượng lớn khi yêu cầu dịch vụ giao hàng chuyên nghiệp. Tăng lượng hàng vận chuyển sẽ giúp giảm giá giao hàng đối với khách hàng.

Như vậy, dịch vụ logistics điện tử là một chiến lược thực sự quan trọng đối với các DN bán lẻ và đã có nhiều giải pháp khác nhau dành cho DN. Tuy nhiên, việc quản lý hệ thống này có thể thực hiện được trong ngắn hạn với quy mô nhỏ, nhưng sẽ trở nên phức tạp khi luồng hàng trở nên quá lớn. Hiện nay, khi xây dựng gian hàng điện tử, phần lớn các DN đã đưa ra dịch vụ theo dõi đơn hàng và quản lý việc giao hàng giúp cho khách hàng hiểu rõ hơn quá trình vận chuyển hàng hóa sau khi đặt hàng.

Trên thực tế, không có giải pháp hoàn hảo, các DN bán lẻ phải quyết định và tính toán đến năng lực cũng như khối lượng kinh doanh của mình để lựa chọn hình thức và dịch vụ hậu cần phù hợp.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Công ty TNHH Baconco và Công ty Thoresen Vinama Logistics Khánh thành kho ngoại quan và mở rộng nhà xưởng sản xuất

(Vietnam Logistics Review) Ngày 27-3, tại KCN Phú Mỹ I (huyện Tân Thành), Công ty TNHH Baconco, Công ty TNHH Thoresen Vinama Logistics (thuộc Tập đoàn Thoresen Thai Agencies) đã khánh thành mở rộng nhà xưởng Baconco với dây chuyền tạo hạt công nghệ mới và dự án kho vận Thoresen Vinama Logistics 2.

Nhà xưởng Baconco mới có diện tích 11.200m2 với trang thiết bị và hệ thống kho bãi tân tiến, phục vụ cho sản xuất đóng gói phân bón và thuốc bảo vệ thực vật; ngoài ra, hệ thống kho bãi được đầu tư xây dựng mới rộng hơn 40.000m2 với sức chứa 150.000 tấn hàng hóa tại KCN Phú Mỹ I. Đây là một trong những dự án kho bãi có quy mô lớn và hiện đại ở BR-VT, đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và sự phát triển các cảng biển mới trên địa bàn tỉnh.

Ông Sigmund Stromme, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Baconco và Thoresen Vinama Logistics cho biết, trong 6 năm qua, Công ty đã liên tục đầu tư hơn 50 triệu USD để thực hiện các dự án tại KCN Phú Mỹ I, hiện tại đang vận hành 71.000m2 nhà kho với sức chứa 300.000 tấn và 40.000m2 kho bãi trong tổng diện tích 268.000m2. Những dự án đang triển khai tại BR-VT hoạt động hiệu quả đã tạo việc làm cho hơn 500 lao động và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
null

Theo:  Vietnam Logistics Review.