(Vietnam Logistics Review) Với nỗ lực hợp tác khu vực cùng việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015 và triển vọng hoàn tất 14 Hiệp định thương mại tự do trong giai đoạn 2015-2020. Trong đó có Chiến lược Hợp tác kinh tế 3 dòng sông (ACMECS). VN sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 55 đối tác, bao gồm tất cả các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.
KHU VỰC TIỂU VÙNG MÊ KÔNG
Khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bao gồm Thái Lan, VN, Lào, Campuchia và Myanmar được đánh giá là khu vực quan trọng ở vùng Đông Nam Á, tập trung các nước nằm ở hạ lưu sông Mê Kông chạy từ vùng núi cao ở Trung Quốc và đổ ra Biển Đông. Với tổng diện tích 2,3 triệu km2, đông dân cư (320 triệu người), đa sắc tộc và có các nền văn hóa rất phong phú, lưu vực sông Mê Kông giàu tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Các nước Mê Kông duy trì mức tăng trưởng kinh tế khá, trung bình khoảng 6-7%/năm. Hiện có hơn 10 cơ chế hợp tác Mê Kông đang hoạt động và bổ trợ hữu hiệu cho hợp tác song phương giữa các quốc gia, thúc đẩy phát triển bền vững tại tiểu vùng. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến khuôn khổ Chiến lược Hợp tác kinh tế 3 dòng sông (ACMECS) và Hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS).
Chiến lược ACMECS
ACMECS (lấy tên 3 dòng sông chính trong lưu vực sông Mê Kông) là khuôn khổ hợp tác kinh tế gồm 5 nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và VN nhằm tăng cường hợp tác kinh tế chung và song phương để khai thác và phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các nước thành viên, nâng cao sức cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách phát triển. ACMECS hình thành dựa trên sáng kiến của Thái Lan vào năm 2003 trong bối cảnh đã khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính năm 1997, muốn tranh thủ mở rộng thị trường, tận dụng tài nguyên, lao động của các nước láng giềng. Đến nay ACMECS được xác định với 8 lĩnh vực ưu tiên: tạo thuận lợi thương mại và đầu tư; nông nghiệp; hợp tác công nghiệp và năng lượng; kết nối giao thông du lịch; phát triển nguồn nhân lực; y tế và hợp tác về môi trường. VN chính thức tham gia ACMECS tại Hội nghị Bộ trưởng ACMECS lần thứ 1 tại Thái Lan, tháng 11.2004.
Sau hơn 10 năm, sự hợp tác chiến lược mà các nước thành viên ACMECS đã có những tiến triển tích cực. Nền kinh tế 5 nước đều đang khởi sắc, tăng trưởng tích cực và là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển bền vững ở khu vực Đông Nam Á. Sự hợp tác mạnh mẽ và gần gũi giữa các nước thành viên ACMECS sẽ có lợi cho khối ASEAN trên con đường xây dựng AEC, cũng như nâng cao tính cạnh tranh, vai trò và vị thế trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, nhất là cùng nằm trên giao lộ kết nối giữa Đông Nam Á và các thị trường rộng lớn như Trung Quốc và Ấn Độ. Kết quả hợp tác ACMECS, nhất là trong liên kết giao thông thông qua phát triển các tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây và Hành lang phía Nam đã góp phần cắt giảm chi phí giao thông, nâng cao tính cạnh tranh của khu vực.
Hội nghị cấp cao ACMECS lần thứ 6 diễn ra tại Myanmar vào ngày 23.6.2015 đã nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của các nước thành viên, đặc biệt là các chương trình hợp tác vì sự phồn thịnh của mỗi quốc gia, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của cả khu vực. Đánh giá về kế hoạch hành động giai đoạn 2013-2015, các nhà lãnh đạo cho rằng kế hoạch đã đạt tiến bộ nhất định, đặc biệt trong kết nối giao thông, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa 5 nước, phát triển các hành lang kinh tế liên quốc gia như Hành lang kinh tế Đông – Tây, Hành lang kinh tế phía Nam, phát triển du lịch xanh và hợp tác nông nghiệp.
Hội nghị cũng thông qua kế hoạch hành động giai đoạn 2016-2018 với mục tiêu là nâng cao sức cạnh tranh của các nền kinh tế, đưa ACMECS thành điểm đến hàng đầu về đầu tư và du lịch, hình thành cơ sở sản xuất thống nhất trong khu vực ACMECS, đặc biệt ở các khu vực biên giới. Để khai thác triệt để tiềm năng hợp tác giữa các nước thành viên ACMECS, trong thời gian tới cần đặt trọng tâm vào các nội dung:
– Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác về nông nghiệp – lĩnh vực có tiềm năng và là ngành sản xuất chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất tại các nước ACMECS. Mục tiêu chính là hỗ trợ các nước thành viên nâng cao năng suất lao động thông qua thu hút đầu tư, tạo quy mô kinh tế lớn hơn và áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại; phát triển ngành công nghiệp chế biến để tăng hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp; hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp tại tiểu vùng, từng bước hội nhập vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Từ những kinh nghiệm của Thái Lan trong nỗ lực phát triển ngành chế biến và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho các sản phẩm nông nghiệp, các nước thành viên ACMECS có thể học hỏi kinh nghiệm và tăng cường hợp tác trong việc xây dựng thương hiệu trong khu vực nông sản, nâng cấp các chương trình hợp tác với các đối tác và thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, hợp tác lúa gạo giữa các thành viên ACMECS cần tập trung vào lĩnh vực sản xuất và chuyển giao công nghệ trước và sau thu hoạch.
– Thứ hai, tạo thuận lợi cho giao thông và thương mại biên giới, đặc biệt là dọc các tuyến hành lang kinh tế tiểu vùng; thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận song phương và đa phương đã ký kết; phối hợp xây dựng các chính sách mới thúc đẩy thương mại, đầu tư và hình thành các tuyến vận tải mới kết nối năm nước. Các nước cần sớm triển khai mô hình kiểm tra một lần dừng tại các cặp cửa khẩu dọc tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây và Hành lang kinh tế phía Nam.
– Thứ ba, hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Ayeyawady – Chao Phraya – Mekong, đặc biệt là trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu; phối hợp thực hiện đánh giá chung về tác động môi trường xuyên biên giới. Bên cạnh nguồn nội lực, các nước ACMECS cần phối hợp cùng vận động hỗ trợ từ các đối tác trong triển khai các dự án hợp tác.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với hội nhập ASEAN chính là khoảng cách phát triển giữa các thành viên ASEAN, đặc biệt là giữa các nước Campuchia – Lào – Myanmar – VN với các nước ASEAN. Do đó, các nỗ lực hợp tác tiểu vùng Mê Kông có ý nghĩa lớn lao trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm thúc đẩy hội nhập của các nước Campuchia – Lào – Myanmar – VN vào tiến trình phát triển chung của khu vực. Các hợp tác này một mặt phát huy lợi thế, tiềm năng sẵn có của các nước này, mặt khác là kênh kêu gọi hỗ trợ của các nước ASEAN khác và các đối tác phát triển.
Dương Ngọc
Theo: Vietnam Logistics Review