Năm 2020, Việt Nam có thể xuất 6,5-6,7 triệu tấn gạo

Bộ NN&PTNT cho biết, tổng sản lượng lúa cả nước năm 2020 khoảng 43,5 triệu tấn, không những đảm bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước, còn đảm bảo lượng xuất khẩu 6,5 -6,7 triệu tấn gạo.

Năm 2020, Việt Nam có thể xuất 6,5 – 6,7 triệu tấn gạo

Doanh nghiệp gặp khó

Trao đổi với Tiền Phong, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Tập đoàn Intimex, một trong những DN xuất khẩu gạo lớn nhất cả nước cho biết, lệnh dừng xuất khẩu gạo bất ngờ, giới doanh nghiệp (DN) xuất khẩu rúng động vì nhiều lô hàng đã chất lên tàu.

Lãnh đạo một DN xuất khẩu lớn khác cho biết, DN đã nhận được công văn của Hải quan tạm dừng xuất khẩu từ 0 giờ ngày 24/3. Theo vị giám đốc này, do dịch bệnh, nên người dân ở một số địa phương đổ xô đi mua dự trữ, thị trường chưa kịp điều tiết, nên dẫn đến thiếu cục bộ, các bộ ngành mới lo lắng.

“Chúng tôi đang tăng ca tối đa để cấp gạo cho thị trường nội địa mùa dịch COVID-19. Điều đang lo, nhiều DN đã ký hợp đồng xuất khẩu từ đầu vụ với giá thấp, nay giá gạo lên cao, họ phải mua vào với giá cao để giao hàng, nên đứng trước nguy cơ lỗ nặng”, vị giám đốc nói.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, hiện giá gạo 5% tấm của Việt Nam xuất khẩu đang ở mức 428-432 USD/tấn, so với khoảng mức 345 USD/tấn từ đầu vụ. Giá gạo xuất khẩu tới nay đã tăng 80-85 USD/tấn- mức cao nhất trong nhiều năm qua. Với mức giá trên, so với cùng phân khúc, giá gạo Việt Nam hơn gạo Thái khoảng 40 USD/tấn, nhưng cao hơn Ấn Độ tới 80 USD/tấn.

Theo ông Phạm Xuân Quế, Tổng Giám đốc Tổng Cty lương thực miền Bắc (Vinafood 1), nếu thị trường khả quan, chắc chắn mục tiêu xuất khẩu 6,7 triệu tấn, kim ngạch trên 3 tỷ USD của ngành lúa gạo hoàn toàn có thể đạt được. Ông cho biết, giá gạo Việt Nam thu hẹp với gạo Thái, nhưng cao hơn gạo Ấn Độ, Pakistan, Myanmar… là các đối thủ của Việt Nam. “Các nước tăng cường nhập khẩu gạo, các hợp đồng lớn liên tục bay về” – ông Quế nói.

Trao đổi với PV Tiền Phong, đại diện một số DN xuất khẩu gạo lớn cho biết, cùng với diễn biến bất thường của dịch COVID-19, các DN xuất khẩu gạo đang trong cảnh tiến thoái lưỡng nan nếu phải dừng xuất khẩu gạo kéo dài.

Lãnh đạo Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) cho hay, để đáp ứng đơn hàng, hiện nhiều doanh nghiệp trong nước đã mua vào một lượng gạo tương đối lớn để chuẩn bị giao theo hợp đồng cho các đối tác. Như doanh nghiệp của ông, đã mua hơn 300 nghìn tấn gạo để thực hiện hợp đồng đã ký giao trong tháng 4.

Chủ tịch HĐQT một DN xuất khẩu gạo tại TPHCM cho hay, với việc tạm dừng không được xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ “đứng hình” vì không biết xử lý hợp đồng với khách hàng thế nào và lấy nguồn tiền đâu để trả lãi vay ngân hàng, trả tiền mua hàng các đại lý thu mua.

Theo vị này, các DN chắc chắn sẽ phải chấp hành yêu cầu dừng xuất khẩu gạo của cơ quan quản lý. Đặc biệt, nếu đã có cảnh báo về việc thiếu lương thực trong nước nếu không cân đối xuất khẩu thì việc tạm dừng cũng là cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay các DN xuất khẩu gạo phần lớn là làm thương mại. Vì vậy, nếu không được xuất khẩu, chắc chắn hoạt động của DN sẽ bị ảnh hưởng rất lớn do khách hàng sẽ phạt hợp đồng, thậm chí hủy đơn hàng cho các lần sau.

Việt Nam có thực sự thiếu gạo?

Ngày 25/3, Bộ NN&PTNT cho biết, Bộ đã phối hợp với các bộ ngành, địa phương để chỉ đạo các giải pháp, đảm bảo được kế hoạch sản xuất lúa năm 2020, với sản lượng lúa dự kiến đạt 43,5 triệu tấn.

Trong 6 tháng đầu năm, toàn bộ lúa vụ Đông Xuân cả nước sẽ được thu hoạch, sản lượng dự kiến đạt khoảng 20,2 triệu tấn thóc, trong đó các tỉnh ĐBSCL khoảng 10,8 triệu tấn (hiện đã thu hoạch 1,3 triệu ha, sản lượng 9 triệu tấn), còn lại 9,4 triệu tấn ở các vùng miền còn lại.

Dự báo 6 tháng cuối năm, toàn bộ lúa Hè Thu, Mùa, Thu Đông cả nước thu hoạch cho sản lượng 23,4 triệu tấn thóc, trong đó các tỉnh phía Bắc là 6,2 triệu tấn, các tỉnh phía Nam là 17,2 triệu tấn.

Lãnh đạo một DN xuất khẩu gạo có tiếng tại TPHCM cho biết, đơn vị “mắc kẹt” 4 container gạo tại cảng Sài Gòn. Số gạo này chuẩn bị xuất sang Úc, nhưng đến cảng mới được hải quan thông báo tạm ngừng thông quan từ 0h ngày 24/3. “Lô hàng lần này trị giá hơn 1,2 tỷ đồng. Để có đơn hàng xuất khẩu, chúng tôi phải chuẩn bị cả tháng, tốn rất nhiều nhân công và chi phí. Quyết định tạm dừng xuất gạo không chỉ khiến đơn hàng dở dang, mà còn gây mất niềm tin với đối tác. Dù hôm nay đã được thông quan trở lại nhưng e rằng trễ hợp đồng. Chúng tôi đang thương lượng với đối tác và chưa nhận được phản hồi” – vị này cho hay.

Bộ NN&PTNT nhận định, nhu cầu lương thực trong nước cũng như thế giới có thể sẽ tăng do một số quốc gia và người dân có thể mua để tích trữ. Do đó, Bộ sẽ theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường để có thể điều chỉnh tăng diện tích lúa Thu Đông lên khoảng 800 nghìn ha nếu có thể.

Theo Tiền phong

Container tồn đọng tại cảng biển giảm hơn 60%

Số lượng container tồn đọng tại cảng biển liên tục được kéo giảm nhờ các biện pháp quyết liệt của cơ quan chức năng.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 21/2/2020, số container tồn đọng lưu giữ trên 90 ngày tại cảng biển Việt Nam là 3.423 container, giảm 65% so với cùng kỳ năm 2019.

Trước đó, tại thời điểm tháng 2/2019, hệ thống cảng biển Việt Nam lưu giữ hơn 23.000 container phế liệu. Trong đó, số lượng container lưu giữ trên 90 ngày lên tới hơn 9.800 container.

Theo Cục Hàng hải VN, kết quả trên đã phản ánh sự quyết liệt của các Bộ, ngành trong suốt thời gian qua. Trong đó, trên cơ sở chỉ đạo, chấp thuận của Chính phủ, Tổ công tác liên ngành gồm: Bộ Tài Chính, Bộ GTVT, Bộ Tài Nguyên – Môi trường; Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp được thành lập để chỉ đạo Hội đồng xử lý hàng hóa tại Cục Hải quan các tỉnh, thành phố triển khai xử lý các lô hàng phế liệu vô chủ.

Đối với những lô hàng quá 90 ngày kể từ ngày đến cửa khẩu hết thời hạn thông báo theo quy định nhưng không có người đến nhận, Hội đồng xử lý hàng hóa đã phối hợp với tổ chức giám định kiểm kê, phân loại. Nếu hàng tồn đọng là phế liệu không đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, cơ quan hải quan phải yêu cầu hãng tàu vận chuyển lô hàng đó ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.

Trường hợp hãng tàu cố tình không vận chuyển, cơ quan hải quan lập danh sách làm cơ sở kiến nghị Bộ GTVT, Bộ Khoa học – Công nghệ có biện pháp xử lý hoặc dừng cấp phép ra, vào cảng biển Việt Nam.

“Riêng đối với ngành hàng hải, thực hiện Chỉ thị 27 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, Cục Hàng hải đã yêu cầu các DN cảng biển phải thống kê, phân loại hàng hóa container đang tồn đọng, đốc thúc hãng tàu báo cáo thông tin về các chủ hàng của lô hàng phế liệu bị tồn tại cảng.

Cùng đó, Cục đã yêu cầu DN cảng biển thực hiện miễn giảm giá dịch vụ lưu kho, lưu bãi để tạo điều kiện cho các DN nhập khẩu rút hàng về, kiên quyết không cho hàng hóa dỡ xuống cảng biển Việt Nam khi chủ tàu, chủ hàng không xuất trình được giấy chứng nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường, hạn ngạch nhập khẩu và chưa thực hiện ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định”, đại diện Cục Hàng hải nói.

Chia sẻ với Báo Giao thông, ông Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Cảng Nam Hải – Đình Vũ (Hải Phòng) – một trong những cảng có lượng container có thời gian lưu giữ trên 90 ngày lớn nhất khu vực phía Bắc với hơn 1.000 container cho biết, từ tháng 5/2019, cảng Nam Hải – Đình Vũ đã áp dụng chính sách giảm chi phí lưu kho, bãi cho DN xuất nhập khẩu.

“Mức giảm phí dao động từ 50 – 70%, thậm chí, những container hàng giá trị thấp như giấy, cảng chấp nhận miễn hoàn toàn phí gửi. Với chính sách trên, thời gian qua, trung bình mỗi tháng, cảng giải phóng được khoảng 100 container, chủ yếu là mặt hàng nhựa phế liệu làm nguyên liệu sản xuất”, ông Tuấn nói và cho biết, mặc dù tốc độ rút container vẫn tương đối chậm, song, số lượng container được rút ra đã giảm bớt gánh nặng chi phí gửi container tồn đọng cho cảng Nam Hải – Đình Vũ.

Theo Báo Giao thông

Việt Nam tiếp tục nhập siêu trong nửa đầu tháng 2

Trong kỳ 1 tháng 2, cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục thâm hụt 30 triệu USD, khiến luỹ kế từ đầu năm đến hết ngày 15/2, cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt 410 triệu USD.

Việt Nam tiếp tục nhập siêu trong nửa đầu tháng 2

Việt Nam tiếp tục nhập siêu trong nửa đầu tháng 2

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất khẩu , nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 2/2020 (từ ngày 1/2 đến ngày 15/2) đạt 19,23 tỷ USD, tăng 32% so với kỳ 2 tháng 1/2020 và tăng 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong kỳ 1 tháng 2, cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục thâm hụt 30 triệu USD, khiến luỹ kế từ đầu năm đến hết ngày 15/2, cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt 410 triệu USD.

Cán cân thương mại của Việt Nam theo từng tháng

Cán cân thương mại của Việt Nam theo từng tháng

Về xuất khẩu, trong kỳ 1 tháng 2, Việt Nam đạt giá trị xuất khẩu là 9,6 tỷ USD, tăng 30% so với kỳ trước đó là giai đoạn có một tuần nghỉ Tết Nguyên đán. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt giá trị xuất khẩu 6,78 tỷ USD.

Luỹ kế đến hết ngày 15/2, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đạt 27,86 tỷ USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, giá trị xuất khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 18,5 tỷ USD.

Tương tự các tháng trước đó, trong kỳ 1 tháng 2, Việt Nam tiếp tục có thế mạnh xuất khẩu ở một số mặt hàng như: Điện thoại các loại và linh kiện; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; Hàng dệt may; Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng và giày dép các loại.

Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 2 đạt 9,62 tỷ USD, tăng 33,7% so với kỳ 2 tháng 1. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,8 tỷ USD.

Luỹ kế đến hết ngày 15/2, giá trị nhập khẩu của Việt Nam đạt 28,27 tỷ USD, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, giá trị nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,5%.

Cũng theo báo cáo sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong kỳ 1 tháng 2/2020 có 2 nhóm mặt hàng có giá trị nhập khẩu trên 1 tỷ USD, bao gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 2,3 tỷ USD; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 1,3 tỷ USD.

Theo Bizlive.

Trang chủ Logistics Hải Quan Đã tái xuất 25 cotainer phế liệu tồn tại cảng Cát Lái

Trong số phế liệu tồn đọng tại cảng Cát Lái- TPHCM, cơ quan Hải quan đã làm thủ tục tái xuất 25 container.

Giám định phế liệu nhập khẩu qua cảng Cát Lái

Giám định phế liệu nhập khẩu qua cảng Cát Lái

Theo Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1, trên 2.000 container phế liệu nhập khẩu qua cảng Cát Lái còn tồn đọng đang được đơn vị kiểm kê, phân loại.

Trong đó, có 25 container đã được tái xuất. Số còn lại có trên 100 container thuộc diện khóa trọng điểm, gần 300 container thuộc các chuyên án đang điều tra nên cũng đang được cơ quan chức năng tạm khóa, trên 160 container đã được doanh nghiệp mở tờ khai hải quan nhưng chưa nhận hàng.

Hiện Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 đã thực hiện phân loại được 300 container, số còn lại sẽ tiếp tục được phân loại để xử lý rốt ráo trong thời gian tới.

Tại buổi làm việc vào cuối tuần qua với lãnh đạo Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1, Cục trưởng Cục Hải quan TPHCM Đinh Ngọc Thắng yêu cầu Chi cục chủ động phối hợp với Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn đẩy nhanh tiến độ phân loại, để khẩn trương xử lý số phế liệu tồn nêu trên, giải phóng mặt bằng cho cảng, thu hút hàng hóa XNK…

Theo Báo Hải Quan Online

Tiếp tục đóng cửa khẩu giao thương, doanh nghiệp phải làm gì?

Chính quyền tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) đã quyết định lùi thời gian mở cửa khẩu ít nhất tới cuối tháng 2. Việc xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc tiếp tục gặp khó khăn, doanh nghiệp cần làm gì trong tình thế này?

Các cửa khẩu phụ sẽ tiếp tục đóng ít nhất đến hết tháng o2/2020

Các cửa khẩu phụ sẽ tiếp tục đóng ít nhất đến hết tháng o2/2020

Thông tin từ Bộ Công Thương cho biết chính quyền tỉnh Quảng Tây đã quyết định kéo dài thời gian đóng cửa các chợ biên giới và tiếp tục tạm dừng hoạt động trao đổi hàng hóa cư dân biên giới, ít nhất là tới cuối tháng 02/2020.

Chính quyền tỉnh Vân Nam hiện chưa có thông tin chính thức nhưng trước những diễn biến phức tạp của dịch nCoV gây ra, nhiều khả năng chính quyền tỉnh Vân Nam cũng sẽ đưa ra quyết định tương tự.

Như vậy các cửa khẩu phụ, con đường chủ yếu để xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Trung Quốc như Tân Thanh, Na Hình, Bình Nghi (Lạng Sơn) và cửa khẩu Lào Cai – Vân Nam… sẽ tiếp tục đóng.

Quyết định của 2 tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đều đã được Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự tính và liên tục cảnh báo trong những ngày qua.

Tuy nhiên, quyết định của 2 tỉnh Quảng Tây và Vân Nam chỉ ảnh hưởng tới hàng hóa đưa lên biên giới để xuất khẩu theo hình thức trao đổi cư dân.

Các lô nông sản xuất khẩu theo đường chính ngạch, kể cả thanh long, vẫn được làm thủ tục thông quan bình thường dù tiến độ có phần chậm hơn do phải thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch bệnh.

Trước đó, theo khuyến nghị của 2 Bộ, các doanh nghiệp đã có các biện pháp điều tiết nên lượng thanh long và dưa hấu đưa lên biên giới để xuất khẩu theo hình thức trao đổi cư dân đã chậm lại đáng kể.

Đại diện Bộ Công Thương cho biết, trước quyết định vẫn tiếp tục đóng biên giới, Bộ đã có văn bản đề nghị Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Tây và Vân Nam giao thiệp với chính quyền 2 tỉnh để trao đổi các biện pháp nhằm giảm thiểu tác động của việc đóng cửa các chợ biên giới và dừng hoạt động trao đổi hàng hóa cư dân biên giới.

Nhưng đại diện bộ này cũng nhận định, trước diễn biến phức tạp và dự kiến còn kéo dài của dịch bệnh, khả năng 2 Bên có thể sớm đưa ra những biện pháp hữu hiệu là không nhiều.

Trước tình hình đó, Bộ Công Thương đã có văn bản khuyến nghị đến các hiệp hội, doanh nghiệp và người dân có biện pháp để điều tiết sản lượng, ít nhất là không sử dụng các biện pháp để gia tăng sản lượng vào thời điểm này.

Với sản lượng đã hoặc sắp thu hoạch, tiếp tục hạn chế đưa hàng lên biên giới trừ trường hợp đưa lên để xuất khẩu theo hình thức chính ngạch; Hoặc liên hệ với chủ hàng để đàm phán chuyển đổi sang hình thức chính ngạch.

Đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp để sẵn sàng chuyển đổi sang hình thức chính ngạch như thay đổi bao bì, nhãn mác hàng hóa, dán tem truy xuất nguồn gốc…

Bộ Công Thương cam kết sẽ chỉ đạo các Phòng giấy phép của Bộ tại các địa phương ưu tiên cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) cho những lô hàng sẵn sàng chuyển sang hình thức chính ngạch.

Theo Pháp luật Việt Nam

Giảm hơn 17.500 container phế liệu tồn đọng tại cảng biển

Năm 2019, số container phế liệu tại cảng biển giảm hơn 17.500 container so với năm trước.

Số container hàng hóa phế liệu tại cảng biển giảm mạnh nhờ sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp chức năng

Số container hàng hóa phế liệu tại cảng biển giảm mạnh nhờ sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp chức năng

Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, năm 2019, số container hàng hóa là phế liệu tồn đọng lưu giữ tại các cảng đã giảm 17.567 container so với năm 2018.

Tính đến tháng 11/2019, số lượng container phế liệu được lưu giữ tại cảng biển là 8.748 container. Trong đó, có 3.102 container được lưu dưới 30 ngày, 46 container lưu tại kho, bãi từ 30 – 90 ngày và 5.600 container tồn đọng tại kho, bãi, cảng trên 90 ngày.

Phía Cục Hàng hải VN cho hay, để kéo giảm lượng container phế liệu tồn đọng tại cảng biển, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 27 về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.

Đến tháng 12/2019, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có Quyết định số 35 ban hành quy chế phối hợp liên ngành quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu. Trong đó quy định rõ, khi phát sinh các vấn đề cần xử lý thuộc thẩm quyền của cơ quan nào thì cơ quan đó chủ trì và các đơn vị khác phối hợp; Khi phát sinh vụ việc thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan quản lý thì cơ quan nào thụ lý đầu tiên sẽ chủ trì xử lý.

“Hiện tại, Cục Hàng hải VN vẫn tích cực phối hợp cùng các bộ, ngành kiểm soát chặt chẽ các lô hàng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất đưa về Việt Nam.

Cục cũng liên tục có văn bản yêu cầu các DN cảng biển phải thống kê, phân loại hàng hóa container đang tồn đọng, đốc thúc hãng tàu biển báo cáo thông tin về các chủ hàng của lô hàng phế liệu bị tồn tại cảng; Kiên quyết không cho hàng hóa dỡ xuống cảng biển Việt Nam khi chủ tàu không xuất trình được giấy chứng nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường, hạn ngạch nhập khẩu và chưa ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định; Đồng thời, thực hiện miễn giảm giá dịch vụ lưu kho, lưu bãi để tạo điều kiện cho các DN nhập khẩu có thể rút hàng về”, đại diện Cục Hàng hải nói.

Được biết, trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ và ý kiến của Bộ, ngành liên quan, vừa qua, Bộ Tài chính đã có văn bản đề xuất Chính phủ hướng xử lý hàng hóa tồn đọng là phế liệu tại cảng biển.

Với những lô hàng quá 90 ngày kể từ ngày đến cửa khẩu hết thời hạn thông báo theo quy định nhưng không có người đến nhận, Hội đồng xử lý hàng hóa phải phối hợp với tổ chức giám định kiểm kê, phân loại. Nếu hàng tồn đọng là phế liệu không đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, cơ quan hải quan phải yêu cầu hãng tàu vận chuyển lô hàng đó ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.

Trường hợp hãng tàu cố tình không vận chuyển, cơ quan hải quan lập danh sách làm cơ sở kiến nghị Bộ GTVT, Bộ Khoa học – Công nghệ có biện pháp xử lý hoặc dừng cấp phép ra, vào cảng biển Việt Nam.

Theo Báo Giao Thông

Hơn 13 triệu tờ khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử

Thực hiện thủ tục hải quan điện tử là một trong những kết quả nổi bật trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến của ngành Hải quan trong năm 2019.

Cơ cấu tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến của ngành Hải quan theo 4 cấp độ đang được quy định hiện nay

Cơ cấu tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến của ngành Hải quan theo 4 cấp độ đang được quy định hiện nay

Thực hiện kế hoạch của Bộ Tài chính, trong năm 2019, Tổng cục Hải quan đã tiếp tục nâng cấp 2 dịch vụ công trực tuyến từ mức độ 1 lên mức độ 4.

Qua đó, đưa tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 lên đến 172/193 thủ tục hành chính (chiếm 89%), trong số đó có 163 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Các thủ tục hành chính cốt lõi như thông quan hàng hóa, thu thuế xuất nhập khẩu đã được cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, mức độ cao nhất, cho phép tiếp nhận, xử lý hồ sơ, thanh toán thuế, phí, lệ phí và trả kết quả hoàn toàn thông qua mạng internet.

Năm 2019, ngành Hải quan đã tiếp nhận và xử lý 13,24/13,33 triệu tờ khai hải quan điện tử (chiếm tỷ lệ 99,34%); tỷ lệ kim ngạch cũng đạt tới 99,94%.

Cùng với đó, số tiền thuế, phí thu bằng phương thức điện tử chiếm tỷ lệ 96,8% số thu của Tổng cục Hải quan.

Tổng cục Hải quan cũng đã phối hợp với các bên liên quan thực hiện công tác chuẩn bị cho việc tích hợp một số dịch vụ công trực tuyến của ngành Hải quan lên Cổng dịch vụ công quốc gia.

Ngoài ra, thực hiện Kế hoạch phát triển, vận hành hệ thống Cổng thông tin điện tử ngành Hải quan giai đoạn 2016-2020, từ ngày 10/10/2019, Tổng cục Hải quan đã triển khai phiên bản mới của Cổng Thông tin điện tử Tổng cục Hải quan và triển khai cổng Thông tin điện tử cho 4 Cục Hải quan: Điện Biên, Cao Bằng, Hà Nam Ninh và Khánh Hòa (những đơn vị chưa có cổng Thông tin điện tử).

Theo Báo Hải quan

Logistics sẽ quyết định cuộc chơi EVFTA

Trong khi nhiều hiệp hội ngành hàng đã có quỹ thời gian hàng năm để chuẩn bị cho Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) thì nhiều doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực logistics (dịch vụ vận chuyển, hậu cần) đang bị động khi Hiệp định này sắp có hiệu lực…

Nửa đầu 2020, EVFTA có hiệu lực?

Theo Bộ Công Thương, quan hệ thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EU) đã phát triển rất nhanh chóng và hiệu quả khi giai đoạn 2000 – 2018 kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng hơn 13,6 lần. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tình hình thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đã và đang có xu hướng giảm.

Cụ thể, tính đến tháng 11/2019, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU đã giảm 1,26% so với cùng kỳ năm 2018. Thống kê kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu chính vào thị trường EU cũng cho thấy sự sụt giảm. Trong đó điện thoại và linh kiện giảm 16%, cà phê giảm 16,4%, thuỷ hải sản gần 13%. Dự kiến, trong năm 2019, xuất khẩu vào EU đạt khoảng 41,8 tỷ USD, giảm 3,6% so với năm 2018.

Ông Vũ Hoàng Linh – Vụ trưởng Vụ Thị trường Âu Mỹ (Bộ Công Thương) cho biết, một trong những nguyên nhân khiến cho kim ngạch sụt giảm là do xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã qua giai đoạn phát triển nóng.

Các mặt hàng nông sản như cà phê, hạt tiêu, hạt điều… chủ yếu là xuất khẩu thô bị tác động mạnh từ giá cả thế giới giảm mạnh do nguồn cung tăng. Nhóm hàng thủy sản cũng gặp khó khăn khi Việt Nam đang chịu tác động của việc bị EU rút thẻ vàng do chưa tuân thủ các quy định của Ủy ban Châu Âu.

Ngoài ra, việc sụt giảm kim ngạch mặt hàng máy tính, linh kiện điện tử cũng tác động đến kết quả xuất khẩu sang châu Âu. Việc sụt giảm này được lý giải là do phụ thuộc vào DN đầu tư nước ngoài, trong đó điển hình là việc Samsung kết thúc đợt đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm Galaxy Note 10 và mặt hàng máy tính bảng sang EU nên giá trị xuất khẩu mặt hàng này cũng bị giảm theo.

Một nguyên nhân khác nữa cũng được nhắc đến là có thể xuất hiện hiện tượng chững lại trước khi EVFTA có hiệu lực. Các DN có thể muốn “găm” hàng để hưởng lợi từ các cam kết trong EVFTA? Bởi theo một số nguồn tin, nhiều khả năng, EVFTA sẽ có hiệu lực trong nửa đầu năm 2020. Trong khi Việt Nam cũng đang có các biện pháp nhằm thúc đẩy thực thi EVFTA sớm hơn.

Chi phí logistics Việt Nam còn cao

Trong khi nhiều hiệp hội ngành hàng hưởng lợi từ các cam kết trong EVFTA như dệt may, da giày, nông thủy sản… đã có quỹ thời chuẩn bị hàng năm cho vấn đề chất lượng, mẫu mã, an toàn thực phẩm… để có thể đạt được những tiêu chuẩn khắt khe của EU, thì một vấn đề khá quan trọng, tác động mạnh đến giá trị kim ngạch xuất khẩu sang châu Âu, chính là logistics lại chưa được quan tâm đúng mức.

Vụ trưởng Linh cho biết, với EVFTA, dự kiến kim ngạch xuất khẩu sang các nước EU sẽ tăng mạnh trong thời gian tới, tác động tích cực đến triển vọng thị trường và phát triển của ngành logistics Việt Nam. Cơ hội rộng mở của giao dịch thương mại song phương giữa EU và Việt Nam có thể làm tăng nhu cầu vận chuyển không chỉ giữa EU và Việt Nam mà còn với cả EU và Đông Nam Á.

Đặc biệt, sau EVFTA, nhu cầu nâng cao chất lượng, điều kiện của kho bãi và công tác vận chuyển cũng sẽ được đặt ra, nhất là trong bối cảnh ngành logistics Việt Nam và châu Âu còn rất nhiều khoảng cách.

Theo điều tra năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng thứ 39/160 quốc gia tham gia về chỉ số năng lực logistics, đứng thứ 4 trong ASEAN (sau Singapore, Malaysia, Thái Lan). Từ năm 2017, Việt Nam cũng đã xác định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics của khu vực vào năm 2025. Chính sách này đã và đang được dần hiện thực hóa với rất nhiều nỗ lực như thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách thủ tục hải quan và hợp tác với các đối tác nước ngoài trong các dự án cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, đại diện nhiều DN logistics cho rằng, họ rất bị động trong kế hoạch phát triển bởi họ không nắm được quy hoạch cụ thể, ngoài ra còn chưa kể chi phí vận chuyển trong tổng cấu thành chi phí logistics khá cao.

Ông Nguyễn Tuấn Vinh – Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty RATRACO cho biết nguyên nhân khiến cho chi phí vận chuyển cao là do kết nối hạ tầng yếu, kết nối phương tiện kém, vận tải đa phương thức cũng chưa phát triển, nhận thức của DN Việt Nam về các vấn đề liên quan đến logistics còn thấp…

Theo doanh nhân này, nếu có thể khắc phục được những hạn chế trên, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng và tăng tính kết nối của phương tiện thì sẽ giảm chi phí vận tải, nâng cao được chất lượng dịch vụ logistics. Chỉ khi giảm được chi phí logistics thì mới có thể tận dụng tối đa các cam kết có lợi cho Việt Nam trong EVFTA, mới tăng được sức mạnh cho hàng hóa xuất khẩu.

Ngoài ra, hiện nay ở nhiều nước, Chính phủ rất tích cực trong việc hỗ trợ phát triển cho logistics như “chấp nhận chạy xe không sang các nước để đón hàng về” nên Việt Nam cũng cần có nhiều chính sách cụ thể hơn để giúp DN logistics nội có thể đứng vững được trước sức mạnh cạnh tranh cực lớn từ các DN logistics ở EU khi EVFTA chính thức có hiệu lực.

Theo Pháp luật .

Xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực đã đến ngưỡng?

Bộ Công Thương vừa có báo cáo thống kê về xu hướng và tình hình xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Theo báo cáo này, nhiều dấu hiệu đáng lo ngại với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.

Nhiều dấu hiệu đáng lo ngại với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới

Nhiều dấu hiệu đáng lo ngại với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới

Đáng quan tâm nhất là xuất khẩu điện thoại các loại, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 48,7 tỷ USD trong 11 tháng của năm 2019 đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại.

Bên cạnh đó nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn đối diện với những khó khăn thách thức. Cụ thể, tính chung 11 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam ước đạt 23,134 tỷ USD, giảm 5,2% so với cùng kỳ. Có tới 7/9 mặt hàng trong nhóm hàng xuất khẩu này có kim ngạch giảm so với cùng kỳ 2018. Trong đó, thủy sản giảm 2,3%, rau quả giảm 2,4%, cà phê giảm 22,2%, sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 5,3%. Một số mặt hàng tăng về lượng nhưng giảm về kim ngạch do giá giảm như: Hạt điều, hạt tiêu, gạo.

Với mặt hàng thủy sản và nông sản, theo Bộ Công Thương, đến thời điểm hiện tại, EU chưa bỏ thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam, cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trong xuất khẩu hàng hóa nông sản, thủy sản do ngày càng nhiều nước tham gia cung ứng nông sản trong khi cầu hạn chế. Kiểm soát vấn đề chất lượng cũng như truy xuất nguồn gốc, năng lực chế biến, bảo quản nông sản, công nghiệp phụ trợ đang là vấn đề cần được quan tâm mạnh mẽ. Trong khi đó, giá các mặt hàng nông, thủy sản đang trong xu hướng giảm.

Việc Việt Nam tăng nhanh và mạnh xuất khẩu sang Mỹ nhiều mặt hàng cũng được cảnh báo có thể kéo theo hệ lụy về việc tăng kiểm soát nhập khẩu từ Việt Nam.

Để gỡ khó cho xuất khẩu, Bộ Công Thương cho hay sẽ nghiên cứu các giải pháp, biện pháp phát triển xuất khẩu, nhập khẩu với từng thị trường quan trọng; tìm kiếm khả năng mở rộng các thị trường xuất khẩu mới còn tiềm năng đồng thời củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống, thị trường là đối tác FTA.

Theo Tiền Phong

Diễn đàn Logistics Việt Nam 2019 Logistics nâng cao giá trị nông sản

Trong hai ngày 22 và 23/11, tại TP. Đà Nẵng đã diễn ra Diễn đàn Logistics Việt Nam 2019. Tham dự có đồng chí Vương Đình Huệ, UV Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UB Chỉ đạo Quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; lãnh đạo Hiệp hội Doanh ngiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA); đại diện lãnh đạo các Bộ Công thương, NN-PTNT, GTVT, Tài chính, KH&CN; đại diện lãnh đạo Tp. Đà Nẵng, Hải Phòng và các tỉnh TTHuế, Cần Thơ, Bình Định, Quảng Ngãi. Ngoài ra còn có đại diện các quốc gia, tổ chức quốc tế.

Phiên thảo luận cấp cao của Diễn đàn

Phiên thảo luận cấp cao của Diễn đàn

Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ 7 – 2019 đã diễn ra một chuỗi sự kiện bao gồm chương trình khảo sát cảng và Trung tâm Logistics Chu Lai, thăm nhà máy ô tô Trường Hải; hai hội thảo chuyên đề “Logistics kết nối hành lang kinh tế Đông – Tây” và “Kinh tế chia sẻ trong logistics”

Phiên toàn thể của Diễn đàn diễn ra vào sáng 23/11 với chủ đề Logistics nâng cao giá trị nông sản với hơn 1.000 lượt đại biểu từ các tập đoàn doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế; hơn 50 chuyên gia quốc tế trên các lĩnh vực thuộc logistics.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn

Theo Báo cáo của World Bank về Chỉ số hoạt động logistics (LPI), công bố ngày 24/7/2018, Việt Nam đứng thứ 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN. Việt Nam cũng là nước có xếp hạng ở tốp đầu trong các thị trường mới nổi. Đây là kết quả tốt nhất mà Việt Nam có được kể từ khi Word Bank thực hiện việc xếp hạng Chỉ số hoạt động logistics trong thập niên vừa qua.

Trong thời gian qua, ngành logistics có mức tăng trưởng cao 13% – 15%. Số lượng các doanh nghiệp vận tải và logistics hiện nay là khoảng 3.000 doanh nghiệp, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không… Sự phát triển của ngành vận tải và logistics đồng thời đã tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực, có năng suất lao động cao và năng lực cạnh tranh tốt.

Với mục tiêu khơi thông dòng chảy logistics, Diễn đàn đã đề cập và bàn thảo các vấn đề chiến lược và thực tiễn của ngành logistics Việt Nam trong mối tương quan giữa bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế trước xu hướng phát triển kỹ thuật số. Diễn đàn đã tập trung phân tích và đề xuất các giải pháp phát triển logistics trên hành lang kinh tế Đông – Tây, các mô hình kinh tế chia xẻ và đặc biêt là hiến kế các biện pháp có tính đột phá và thực tiễn nhằm thúc đẩy logistics nâng cao giá trị nông sản.

Diễn đàn logistics Việt Nam 2019 cũng đặt mục tiêu tăng cường kết nối đa phương, kết nối những giá trị và nền tảng bền vững, nâng cao giá trị đóng góp của logistics trong GDP của cả nước cho những năm tới.

Diễn đàn Logistics Việt Nam được khởi xướng từ năm 2013, Bộ Công Thương và Thời báo Kinh tế Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan có liên quan duy trì tổ chức thường niên trong suốt hành trình 7 năm liên tiếp và đã trở thành một diễn đàn cấp quốc gia kết nối quốc tế thể hiện mạnh mẽ tiếng nói cộng đồng doanh nghiệp và các địa phương trong hoạt động logistics.

Các bài phát biểu và tham luận trong Diễn đàn đều đề cập về thực trạng những vấn đề đặt ra cho việc phát triển hệ thống logistics, đáp ứng nhu cầu phát triển của chuỗi giá trị nông nghiệp; nêu các ý kiến và hiến kế của doanh nghiệp. Đặc biệt là phần thảo luận cấp cao.

Tại Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, thông qua Diễn đàn Logistics Việt Nam lần này, chúng tôi mong muốn các Hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics cả nước đối thoại với các Bộ ngành, địa phương về các ý tưởng, biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ logistics, để logistics trở thành ngành mũi nhọn, hỗ trợ hiệu quả cho các ngành kinh tế khác, trước hết là hỗ trợ nâng cao giá trị nông sản Việt Nam; thúc đẩy kết nối phát triển logistics dọc các hành lanh kinh tế chính và giải pháp tận dụng hiệu quả mô hình kinh tế chia sẻ trong logistics để tiết kiệm nguồn lực, giảm chi phí logistics.

Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch VLA phát biểu tại Diễn đàn

Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch VLA phát biểu tại Diễn đàn

Chung quanh chủ đề Logistics nâng cao giá trị nông sản, tại Diễn đàn, ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch VLA cũng đã phát biểu nêu lên một số mặt còn yếu kém trong chuỗi cung ứng dịch vụ cho nông nghiệp, nhất là hệ thống thiết bị lạnh. Với kinh nghiệm tích lũy được từ thực tế và từ các diễn đàn khu vực ASEAN ông Lê Duy Hiệp cho rằng, chúng ta nên quan tâm tạo điều kiện trong việc đầu tư hoàn thiện cung ứng trong công nghệ logistics đối với chuỗi lạnh nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao giá trị cho nông sản.

Phát biểu chỉ đạo tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đồng tình với phương hướng, nhiệm vụ công tác trong thời gian tới và các kiến nghị của Bộ Công Thương, Bộ NN-PTNT, Bộ GTVT, các ý kiến tại Diễn đàn để phát triển logistics. Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị các Bộ ngành cần xác định logistics ở trong thời gian tới sẽ là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn dịch vụ logistics với phát triển sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại trong nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển nhanh, bền vững. Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến lược, vừa mang tính tổng thể vừa có chiều sâu, nhất là những diễn biến kinh tế – chính trị mới gần đây và làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0; chỉ ra những nguyên nhân, dự báo chiều hướng phát triển, phân tích tác động tới khu vực cũng như nước ta, từ đó đề xuất với Chính phủ những chủ trương, quyết sách thích hợp, nhằm tận dụng những cơ hội, ứng phó với những khó khăn, thách thức mới. Đặc biệt chú trọng những nghiên cứu mang tính chiến lược tổng thể trong quan hệ với các nước ảnh hưởng trực tiếp tới nước ta và quan tâm thích đáng đến các vấn đề của khu vực, từ Tiểu vùng Mê Kông, ASEAN đến thế giới; tiếp tục thực hiện và mở rộng các quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trong khu vực. Cấp thiết nghiên cứu, xây dựng một Chiến lược tổng thể đi đôi với một Quy hoạch tổng thể phát triển ngành logistics của Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Ủy ban chỉ đạo quốc gia cùng với cơ chế phân cấp quản lý linh hoạt giữa Trung ương và địa phương; tiếp tục tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác logistics có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ giỏi, phẩm chất đạo đức đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới trong thời gian tới. Đối với các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới cần quán triệt quan điểm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tăng thêm phần giá trị gia tăng của các sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, tránh xuất khẩu các sản phẩm, hàng hóa sơ chế, có khối lượng lớn nhưng giá trị thấp gây ảnh hưởng đến chi phí vận tải.

Theo Vietnam Logistics review.