Logistics chưa theo kịp thương mại điện tử

Tỷ lệ chi phí logistics trên GDP của Việt Nam chiếm đến 20,9%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore.

Việt Nam đã có bước nhảy vọt trong hỉ số LPI năm 2018

Việt Nam đã có bước nhảy vọt trong hỉ số LPI năm 2018

Sự phát triển thần tốc của thương mại điện tử đã thúc đẩy nhu cầu giao nhận hàng hóa không chỉ gia tăng về số lượng mà còn cả về chất lượng. Tuy nhiên, dịch vụ logistics trong nước hiện nay vẫn đang tụt hậu, chưa bắt kịp tốc độ phát triển của thương mại điện tử.

Theo số liệu thống kê mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018, ngành logistics Việt Nam hiện có tốc độ tăng trưởng 16%/năm và dự báo sẽ còn tiếp tục tăng trưởng trong các năm tới. Với nhiều nỗ lực, Việt Nam đã có bước nhảy vọt trong chỉ số LPI (Logistics Performance Index – chỉ số đánh giá kết quả hoạt động logistics) trong năm vừa qua.

Nếu như năm 2016, Việt Nam có chỉ số LPI là 2,98, xếp hạng 64/160 quốc gia được đánh giá và xếp thứ 5 trong khối ASEAN, thì năm 2018 chỉ số này tăng 25 bậc. Theo đó, Việt Nam vượt lên ở vị trí 39 với điểm số LPI được cải thiện đáng kể là 3,27, cao nhất trong 6 lần xếp hạng, xếp thứ 3 trong khối ASEAN, sau Singapore vị trí 7 và Thái Lan vị trí 32.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), quy mô thị trường logistics Việt Nam cũng không ngừng tăng cùng với tăng trưởng nhanh của kim ngạch xuất nhập khẩu trong nhiều năm qua, đạt khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Trong đó, thương mại điện tử đang và sẽ là nhân tố dẫn dắt chính sự phát triển của logistics.

Thống kê của Công ty Armstrong & Associates (Hoa Kỳ) cho thấy, dự kiến đến năm 2020, thương mại điện tử sẽ chiếm khoảng 7,2 – 7,5% tổng doanh thu logistics thế giới.

Thương mại điện tử lên ngôi

Với sự phát triển không ngừng của điện thoại thông minh, mức độ phủ sóng ngày càng rộng của mạng Internet cùng các mạng không dây 3G và 4G, doanh thu từ hoạt động mua sắm trực tuyến liên tục gia tăng. Nếu như giá trị thương mại điện tử trong năm 2012 mới chỉ đạt gần 5 nghìn tỷ đồng, đến năm 2017 đã tăng lên gấp 5 lần và đạt mức 25,7 nghìn tỷ đồng (số liệu của Euromonitor).

Với tốc độ tăng trưởng trung bình vào khoảng 33%/năm, dự kiến, giá trị thương mại điện tử Việt Nam sẽ đạt mốc 106 nghìn tỉ đồng trong năm 2022, tương ứng với khoảng 4,6 tỷ USD.

Nhờ bàn đạp là sự phát triển như vũ bão của công nghệ, thương mại điện tử ở Việt Nam đang ở thời kì “bình minh rực rỡ”, là một trong những quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng thương mại điện tử cao nhất trên thế giới với sự xuất hiện của nhiều công ty thương mại điện tử, tiêu biểu như: Sendo, Adayroi!, Tiki, Lazada, Shopee… Kèm theo đó, áp lực ngày càng tăng lên hệ thống logistics, chuỗi cung ứng, các kênh phân phối và bán lẻ, cũng như hệ thống nhà xưởng, nhà kho.

Ông Nguyễn Trần Thi, CEO Công ty cổ phần dịch vụ Giao Hàng Nhanh đánh giá: “Tại Việt Nam, thị trường thương mại điện tử mỗi năm tăng trưởng lên đến 100% nhờ đại đa số giới trẻ đều dùng Internet và xu hướng mua hàng online ngày càng trở nên phổ biến”.

Trong khi thương mại truyền thống chỉ tập trung phát triển ở một số thành phố lớn, thương mại điện tử lại được phủ sóng khắp mọi tỉnh thành trong toàn quốc. Tuy nhiên, thương mại điện tử không thay thế kênh mua sắm thông thường, mà đang chuyển đổi thành kênh mua sắm chính thức, giúp người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận hàng hóa, đáp ứng nhu cầu và mong muốn của mình.

“Miếng bánh thương mại điện tử trong thị trường thương mại chung sẽ ngày càng lớn hơn. Đây là cơ hội cực kỳ lớn cho những doanh nghiệp kinh doanh trong thị trường này”, ông Thi bày tỏ.

Trong xu thế chung của phát triển công nghệ, thương mại điện tử phát triển với tốc độ chóng mặt do mang lại ngày càng nhiều ích lợi cho người tiêu dùng.

Ông Hồ Châu Tài, Giám đốc Kế hoạch kinh doanh và hoạt động tại Tập đoàn Tiki phân tích “thương mại điện tử đem lại tính tiện lợi, giá rẻ, cạnh tranh so với các cửa hàng bán lẻ. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp phải đệ đơn xin phá sản vì sức ép của thương mại điện tử”.

Theo thời gian, những doanh nghiệp làm ăn không đàng hoàng bị loại bỏ. Từ đó, thị trường sẽ đón nhận những doanh nghiệp có thực lực với mong muốn phục vụ cho lợi ích của người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng tăng niềm tin đối với thương mại điện tử.

Tất nhiên, “quả bóng tuyết càng lăn sẽ càng to, người tiêu dùng ngày càng có nhiều niềm tin hơn vào thị trường thương mại điện tử, sẽ giúp các công ty thương mại điện tử phát triển, cung cấp nhiều tiện ích hơn cho người dùng”, anh Tài ví von.

Tuy nhiên, dù có những bước tiến nhảy vọt trong chỉ số LPI, logistics tại Việt Nam vẫn còn nhiều “nút thắt cổ chai”, cản bước thương mại điện tử phát triển.

Nhiều điểm nghẽn cản bước “bệ phóng”

Để chiếc “tên lửa” thương mại điện tử có thể phóng được với tốc độ chóng mặt, không thể thiếu được “bệ phóng”, đó chính là sự quản lí chuỗi cung ứng và logistics trong thương mại điện tử.

Tuy nhiên, TS. Phạm Nguyên Minh, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương đánh giá “doanh nghiệp dịch vụ logistics trong nước còn khá non trẻ, chỉ chiếm thị phần nhỏ. Năng lực của các doanh nghiệp không đồng đều, thiếu tính chuyên nghiệp, hoạt động logistics còn phân tán, thiếu kết nối nên chưa thuyết phục được chủ hàng tăng thuê ngoài dịch vụ logistics”.

Ngoài ra, điểm yếu của các doanh nghiệp dịch vụ logistics trong nước là chi phí dịch vụ còn chưa cạnh tranh tốt, chất lượng một số dịch vụ chưa cao, trong điều kiện thị trường cung cấp dịch vụ của Việt Nam hiện nay có sự cạnh tranh gay gắt.

“Nguyên nhân chính là do hạn chế về quy mô doanh nghiệp, vốn, kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cũng như trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động quốc tế”, ông Minh phân tích.

Cũng theo ông Đào Trọng Khoa, Phó Chủ tịch VLA, tỷ lệ chi phí logistics trên GDP của Việt Nam chiếm đến 20,9%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore. Đó là con số phản ánh mức chi phí logistics ở Việt Nam cao gần gấp hai lần so với các nước phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu là 14%.

Về chi phí vận tải, hiện nay, trong chi phí logistics tại Việt Nam, chi phí vận tải quá cao, chiếm 59%. Chi phí này đang chiếm 30 – 40% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này chỉ khoảng 15% ở các quốc gia khác. Điều này làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó, mặc dù giao dịch trên nền tảng thương mại điện tử, tuy nhiên đến 90% đơn hàng hẹn thanh toán sau khi nhận hàng, hay tỷ lệ giao hàng không thành công khá cao, khoảng 8 – 10%. Điều này không chỉ tăng chi phí cho người bán hàng, mà khiến những doanh nghiệp logistics nảy sinh nhiều chi phí, từ chi phí lưu trữ hàng hóa, chi phí con người đến nhiều quy trình xử lý phức tạp phía sau để hoàn đơn.

Công nghệ là nhân tố bứt phá

Cạnh tranh giao nhận hàng hóa nhanh hay chậm trên thị trường ngày càng trở nên khắc nghiệt, khi “ông lớn” DHL cam kết giao hàng trong ngày, Lazada mở dịch vụ hỏa tốc, Tiki với “tuyên ngôn” giao hàng trong vòng 2 giờ.

Đánh giá Giao Hàng Nhanh là đối tác tin cậy và lớn, có dịch vụ với chất lượng ổn định, dẫn đầu trên thị trường về tốc độ giao hàng và thời gian, Tiki đã chọn Giao Hàng Nhanh là một trong những đơn vị vận chuyển cho mình. Tiki cũng phải thừa nhận, chính công nghệ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp này.

Ông Tài lý giải, đầu tư vào công nghệ là đầu tư cho tương lai. Thứ nhất, Tiki chi tiền để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng phát triển mạnh mẽ hơn. Thứ hai, đầu tư công nghệ để thay đổi thói quen, “educate” người tiêu dùng, đặc biệt ở khu vực nông thôn. “Đầu tư về công nghệ là yếu tố sống còn của doanh nghiệp thương mại điện tử”, ông Tài cho hay.

Theo VnEconomy

Việt Nam ước nhập siêu 800 triệu USD trong tháng 01/2019

Tháng 01/2019, Việt Nam ước tính nhập siêu 800 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,6 tỷ USD, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 1,8 tỷ USD.

Xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh giảm mạnh đã khiến kim ngạch xuất khẩu tháng 01/2019 giảm theo

Xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh giảm mạnh đã khiến kim ngạch xuất khẩu tháng 01/2019 giảm theo

Báo cáo mới nhất từ Tổng cục Thống kê cho biết, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 01/2019 ước tính đạt 20 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng cuối cùng của năm 2018, tuy nhiên lại giảm 1,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 6,42 tỷ USD, giảm 0,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,58 tỷ USD, tăng 3,2%.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng so với tháng 12/2018 là hóa chất tăng 33,4%; rau quả tăng 30,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 21,8%; dầu thô tăng 19,3%; sắt thép tăng 19,2%.

Bên cạnh đó, một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị giảm như điện thoại và linh kiện giảm 0,9%; hàng dệt may giảm 4,3%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 4,6%.

Nếu so với cùng kỳ năm ngoái, điện thoại và linh kiện đạt 2,9 tỷ USD, giảm 27,5%, đây là nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu tháng 1 giảm.

Các nhóm hàng khác như điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,3 tỷ USD, giảm 5%; máy ảnh, máy quay phim đạt 450 triệu USD, giảm 9,1%.

Một số mặt hàng nông sản cũng có kim ngạch giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước như cà phê đạt giảm 27,2%; hạt điều giảm 8,7% (lượng tăng 14,7%); gạo giảm 24,8%; hạt tiêu giảm 32,9%.

Về nhập khẩu, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 1/2019 ước tính đạt 20,8 tỷ USD, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 3,1% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,05 tỷ USD, tăng 3,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,75 tỷ USD, tăng 0,7%.

Một số mặt hàng có giá trị kim ngạch nhập khẩu lớn trong tháng o1/2019 là điện tử, máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD – tăng 0,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3 tỷ USD – tăng 3,8%; điện thoại và linh kiện đạt 1,4 tỷ USD – giảm 12%; vải đạt 1,1 tỷ USD – tăng 5,8%; sắt thép đạt 788 triệu USD – giảm 3,2%; chất dẻo đạt 780 triệu USD – tăng 0,3%.

Tính chung, tháng 1/2019 Việt Nam ước tính nhập siêu 800 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,6 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 1,8 tỷ USD.

Theo VnEconomy

Đầu năm, Việt Nam bất ngờ nhập siêu gần 1 tỷ USD

Ngày 21/01/2019 lúc 08:19 Logistics(VLR) Nửa đầu tháng 01/2019, nhập khẩu cả nước đạt gần 10,2 tỷ USD, tăng mạnh 646 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái.

Nửa tháng đầu năm 2019, Việt Nam bất ngờ nhập siêu trở lại - Ảnh minh họa

Nửa tháng đầu năm 2019, Việt Nam bất ngờ nhập siêu trở lại – Ảnh minh họa

Theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Hải quan, 2 tuần đầu tháng 01/2019, tổng trị giá xuất khẩu cả nước đạt 9,2 tỷ USD, giảm nhẹ 71 triệu USD so với cùng kỳ 2018. Trong khi đó nhập khẩu đạt gần 10,2 tỷ USD, tăng mạnh 646 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái.

Trái với kỷ lục xuất siêu gần 6,8 tỷ USD trong năm 2018, 15 ngày đầu năm mới 2019, cả nước bị thâm hụt gần 1 tỷ USD.

Cũng thời gian này, có 3 nhóm hàng xuất khẩu đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên đó là dệt may, điện thoại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Trong đó, kim ngạch của nhóm hàng điện thoại bị sụt giảm mạnh, chỉ đạt 1,293 tỷ USD trong khi cùng kỳ năm ngoái lên đến hơn 2,1 tỷ USD.

Như vậy, riêng nhóm hàng này bị sụt giảm đến hơn 800 triệu USD, tương đương hơn 39% kim ngạch. Đây cũng là lý do chính khiến trị giá xuất khẩu cả nước bị sụt giảm. Ngoài ra, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng bị sụt giảm nhẹ gần 50 triệu USD.

Trong 3 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, chỉ nhóm hàng dệt may đạt được sự tăng trưởng về kim ngạch với kết quả 1,245 tỷ USD, tăng gần 13%, tương đương gần 150 triệu USD.

Theo lý giải của các chuyên gia trong ngành, 15 ngày vừa qua là giai đoạn cận Tết Nguyên đán Kỷ Hợi nên việc giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu là điều có thể hiểu được bởi thời điểm này hoạt động sản xuất, xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi lịch nghỉ Tết, trong khi nhu cầu nhập khẩu hàng hóa phục vụ Tết tăng lên.

Theo: vov.vn

Cảng biển Việt Nam tăng vọt nhiều lần sau gần hai thập kỷ

Sau gần 20 năm thực hiện quy hoạch, hệ thống cảng biển Việt Nam đã tăng lên 4,4 lần chiều dài bến cảng.

Mạng lưới cảng biển Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và năng lực

Mạng lưới cảng biển Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và năng lực

Theo Cục Hàng hải VN, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có tổng số bến cảng được công bố là 272 bến cảng với khoảng 92,2km chiều dài cầu cảng, tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm.

Ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục Hàng hải VN cho biết, so với năm 2000 – năm đầu tiên thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam, hệ thống cảng biển đã tăng 4,4 lần chiều dài bến cảng.

“Năng lực bến cảng ngày càng được quan tâm nâng cấp, cải tạo để tiếp nhận các tàu có trọng tải ngày càng lớn. Hầu hết các cảng tổng hợp, đầu mối đã đón được tàu có trọng tải đến 30.000 DWT. Có những bến cảng được đầu tư, có khả năng đón được tàu container lớn nhất từ trước đến nay (196.000 DWT) như bến cảng CMIT ở khu vực Cái Mép – Thị Vải”, ông Sang nói.

“Năm 2018 bến cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện chính thức khánh thành, đưa vào khai thác 2 bến khởi động, có thể tiếp nhận tàu trọng tải 100.000 DWT. Cùng đó, lần đầu tiên tại Việt Nam, các bến cảng chuyên dùng hành khách đã được đầu tư xây dựng tại Hòn Gai (Quảng Ninh) và Phú Quốc (Kiên Giang), cho phép tiếp nhận tàu khách quốc tế trọng tải đến 225.000GT khi hoàn thành”, ông Sang chia sẻ thêm.

Cũng trong năm 2018, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam ước đạt 524,7 triệu tấn, trong đó, khối lượng hàng container thông qua cảng biển ước đạt 17,8 triệu TEUs, tăng lần lượt 19% và 24% so với năm 2017. Lượng hành khách qua cảng cũng tăng 28,9% so với năm 2017, đạt 5,8 triệu hành khách.

Theo Báo Giao thông

Navtex đem lại nhiều lợi ích cho các phương tiện trên biển

Hệ thống Navtex quốc tế giúp thuyền viên trên tàu tiết kiệm về thời gian trực canh và thời gian chủ động thu nhận bản tin, đặc biệt đối với những đội tàu có cường độ lao động cao.

Thông tin thu được từ hệ thống Navtex vô cùng quan trọng cho sự an toàn của các thuyền viên và con tàu hoạt động trên hải phận quốc tế

Thông tin thu được từ hệ thống Navtex vô cùng quan trọng cho sự an toàn của các thuyền viên và con tàu hoạt động trên hải phận quốc tế

Mọi phương tiện đi biển có thể thu được thông tin an toàn

Trước năm 1988, trên những tuyến hành hải, ngoài những bản tin thu nhận từ phương thức thông tin như Morse trên tần số 500 kHz, thoại vô tuyến trên tần số 2182 kHz, các thuyền viên trên tàu không có phương thức thông tin liên lạc khác. Điều này khiến số lượng tàu vận tải gặp tai nạn, rủi ro tương đối lớn, đặc biệt ở những khu vực có mật độ tàu thuyền qua lại nhiều.

Nhằm giải quyết vấn đề này, hệ thống Navtex quốc tế ra đời, cung cấp phương tiện thu trên các đài tàu trong các vùng nước ven biển với giá rẻ, đơn giản và tự động.

Các thông tin an toàn hàng hải bao gồm: Cảnh báo hành hải (cảnh báo về luồng lạch, chướng ngại vật nguy hiểm), cảnh báo động đất sóng thần, diễn tập quân sự, cảnh báo khí tượng như bão, áp thấp nhiệt đới, gió mùa, thời tiết nguy hiểm, dự báo thời tiết biển, các bản tin tìm kiếm cứu nạn và bản tin khẩn cấp khác liên quan đến an toàn hàng hải.

Sự ra đời của hệ thống Navtex đem lại rất nhiều lợi ích cho các phương tiện hành hải trên biển. Hệ thống này có ưu điểm vượt trội khi các tàu chỉ cần bật máy có trang bị máy thu Navtex là có thể thu tự động các thông tin an toàn hàng hải. Máy thu sẽ tự động in ra các bản tin an toàn hàng hải trên giấy để các tàu dễ dàng cập nhật thông tin về điều kiện thời tiết, địa hình… tại khu vực tàu hành hải qua và từ đó có hướng điều chỉnh phù hợp. Điều này giúp thuyền viên trên tàu tiết kiệm thời gian trực canh và thời gian chủ động thu nhận bản tin, đặc biệt đối với những đội tàu có cường độ lao động cao.

Với đặc tính loại bỏ các bức điện đã thu, hệ thống Navtex có thể thích hợp với tất cả các cỡ tàu và loại tàu, đảm bảo mọi phương tiện đi biển có thể thu được bản phát quảng bá thông tin an toàn theo nhu cầu riêng của mình. Hệ thống Navtex đóng một vai trò không thể thiếu trong hệ thống cấp cứu và an toàn hàng hải toàn cầu, đồng thời cũng là một thành phần của dịch vụ cảnh báo hành hải trên toàn thế giới của IMO và ILO.

Các bản tin an toàn hàng hải phát trên tần số 518 kHz, 490 kHz, 4209.5 kHz

Tại Việt Nam, các bản tin về an toàn hàng hải đã và đang được hệ thống Đài TTDH Việt Nam phát hàng ngày tới tất cả các tàu thuyền trong nước cũng như nước ngoài khi hành hải trong khu vực theo dịch vụ Navtex quốc tế trên tần số 518 kHz bằng tiếng Anh và dịch vụ Navtex quốc gia trên tần số 490 kHz và 4209.5 kHz bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh.

Thực tế cho thấy, những thông tin thu được từ Navtex vô cùng quan trọng cho sự an toàn của các thuyền viên cũng như những con tàu hoạt động trên hải phận quốc tế. Đặc biệt, khi hành hải qua những địa phận của các quốc gia khác, việc thu được các bức điện bằng tiếng Anh đã giúp ích đáng kể cho thuyền viên trong việc biết và phòng tránh những nguy hiểm đang rình rập.

Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn cho mỗi chuyến ra khơi và tiết kiệm thời gian khai thác, việc quan trọng và không thể thiếu cho mỗi phương tiện khi hành hải là trang bị máy thu Navtex cùng những kiến thức cần thiết về dịch vụ này. Hãy liên hệ với bất kỳ đài TTDH nào để được hướng dẫn miễn phí về cách cài đặt và thu nhận thông tin an toàn hàng hải trên biển bằng phương thức Navtex.

Theo baogiaothong.vn

Xóa bỏ 7.819 dòng thuế nhập khẩu từ Hồng Kông vào năm 2022

Từ 2019 – 2022, 72% dòng thuế của biểu thuế trong Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc (AHKFTA), tương ứng 7.819 dòng thuế sẽ được xóa bỏ.

Nếu được thông qua, từ 2019 - 2022 sẽ có 72% dòng thuế của biểu thuế AHKFTA, tương ứng 7819 dòng thuế sẽ được xoá bỏNếu được thông qua, từ 2019 – 2022 sẽ có 72% dòng thuế của biểu thuế AHKFTA, tương ứng 7819 dòng thuế sẽ được xoá bỏ

Để thực hiện cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định trình Chính phủ ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam giai đoạn 2019 – 2022. Theo đó, nếu được thông qua, từ 2019 – 2022 sẽ có 72% dòng thuế của biểu thuế AHKFTA, tương ứng 7.819 dòng thuế sẽ được xóa bỏ.

Theo Bộ Tài chính, do biểu cam kết thuế nhập khẩu của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc được ký kết trên cơ sở danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) 2012 và phiên bản 2017 nên Bộ Tài chính đã chuyển đổi biểu thuế Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc từ AHTN 2012 sang AHTN 2017 để làm cơ sở ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt AHKFTA của Việt Nam giai đoạn 2019 – 2022.

Theo đó, có 83 dòng hàng bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi mã hàng, tách gộp dòng. Đối với những dòng hàng này, Bộ Tài chính xây dựng thuế suất theo nguyên tắc, không làm xói mòn cam kết quốc tế theo các phương thức chuyển đổi của WTO, đồng thời, đảm bảo tính khả thi trong triển khai thực hiện.

Theo Bộ Tài chính, thuế suất để thực hiện cam kết trong Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc được xây dựng trên nguyên tắc, tuân thủ cam kết theo lộ trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam quy định tại Hiệp định thương mại hàng hoá giữa ASEAN và Hồng Kông. Về tổng thể, biểu thuế theo AHTN 2017 giai đoạn 2018 – 2022 gồm 10.856 dòng thuế. Trong đó, gồm 10.775 dòng thuế theo cấp độ 8 số và 81 dòng thuế được chi tiết theo cấp độ 10 số. Lộ trình cắt giảm thuế quan trong biểu thuế ban hành được áp dụng cho 4 giai đoạn: từ 01.01 – 31.12.2019; từ 01.01.2020 – 31.12.2020; từ 01.01.2021 – 31.12.2021; từ 01.01.2022 – 31.12.2022.

Nhìn chung, các danh mục cam kết theo AHTN 2017 đều tăng hơn so với AHTN 2012. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ của từng danh mục trên tổng biểu thuế thì hầu như không thay đổi. Tỷ lệ xóa bỏ thuế quan trong Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc giai đoạn 2019 – 2022 vào khoảng 72% số dòng thuế của biểu thuế , tương ứng 7.819 dòng thuế với kim ngạch nhập khẩu trị giá khoảng 658,7 triệu USD.

Thống kê cho thấy, nhập khẩu từ thị trường Hồng Kông có sự tăng trưởng tương đối cao trong giá trị nhập khẩu thời gian gần đây. Năm 2017 giá trị nhập khẩu tăng 11% so với cùng kỳ năm 2016, từ khoảng 1,495 tỷ USD lên 1,660 tỷ USD. Những mặt hàng nhập khẩu chính từ Hồng Kông tập trung vào các nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, da giày; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; phế liệu sắt thép; điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử…

Theo tính toán của Bộ Tài chính, trong giai đoạn từ 2019 – 2022, mức thuế suất trung bình tại Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc giảm từ 6,97% năm 2019 xuống 4,98% năm 2022. Mức thay đổi thuế suất trung bình lớn nhất diễn ra trong năm 2021, với mức giảm từ 6,52% năm 2020 xuống 4,98% trong năm 2021 tương ứng với mức sụt giảm 63,8 tỷ đồng số thu thuế nhập khẩu.

Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc chính thức được khởi động đàm phán vào năm 2014. Trải qua 10 phiên họp, Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc kết thúc nội dung đàm phán vào cuối tháng 7.2017. Tại Hội nghị Tham vấn của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Hồng Kông tháng 9.2017, các bên chính thức tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định. Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Hồng Kông, Trung Quốc đã được các bên ký kết vào tháng 11.2017 bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 31 tại Philippines.
Theo enternews.vn

Logistics Việt Nam nhìn lại để bước tới

Ngành logistics Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nhiều lĩnh vực. Nếu tính từ ngày thành lập Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (tiền thân của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam – VLA) thì đến nay ngành logistics Việt Nam đã được 25 năm. Dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận song ngành logistics vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức cần giải quyết để hướng tới tương lai trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Bức tranh nhiều mảnh ghép

Trước hết phải khẳng định, logistics là một ngành kinh tế dịch vụ quan trọng mang tính hệ thống liên quan đế nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau. Dù nó tương đối phát triển nhưng còn mới mẻ tại Việt Nam, kể cả đến khái niệm cũng còn nhiều cách gọi/hiểu khác nhau. Vì những lý do trên, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một nghiên cứu cụ thể đầy đủ nào về ngành logistics Việt Nam (ngoại trừ một vài nghiên cứu phục vụ đào tạo) và các con số cũng chỉ là ước tính.

Thuật ngữ Logistics được chính thức đề cập tại điều 233 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, trong đó nêu rõ: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.

Trên quan điểm học thuật, các nhà nghiên cứu đã đưa ra cách hiểu khác nhau nhưng tựu chung lại, logistics là hoạt động theo chuỗi dịch vụ từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nó liên quan trực tiếp đến hoạt động vận tải, giao nhận, kho bãi, các thủ tục dịch vụ hành chính, tư vấn (hải quan, thuế, bảo hiểm…), xuất nhập khẩu – thương mại, kênh phân phối, bán lẻ… Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, logistics liên quan đến nhiều bộ ngành như: Công Thương, Giao thông vận tải, Tài chính, Tư pháp, Công nghệ thông tin, Lao động…

Xét về mặt pháp lý, cho đến thời điểm này, quy định về kinh doanh dịch vụ logistics mới chỉ có Nghị định số 163/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 30.12.2017 (có hiệu lực từ ngày 20.2.2018), thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 5.9.2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Bên canh đó, còn lại nằm rải rác ở những văn bản Luật khác như: Bộ luật dân sự, Luật: doanh nghiệp, đầu tư, cạnh tranh, hải quan, giao thông đường bộ, đường sắt, giao thông thủy nội địa, hàng không dân dụng, hàng hải, bảo hiểm và các điều lệ, văn bản hướng dẫn thi hành.

Về hiệp hội chuyên ngành liên quan đến dịch vụ logistics cũng còn khá nhiều, chưa có sự thống nhất hoặc sự liên kết chặt chẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động đôi khi còn hạn chế.

Xu hướng lĩnh vực logistics từ vai trò của một ngành phục vụ, đang trở thành sự kết nối xuyên suốt và quyết định năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế, đang đặt ra những yêu cầu thay đổi toàn diện về phương pháp và nguồn lực để thúc đẩy sự đổi mới của lĩnh vực logistics ở mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Những thành quả

Trên cơ sở nghiên cứu và hiểu biết của người viết, ở góc độ kinh tế, dịch vụ logistics với nghĩa “hậu cần”, “giao nhận hàng hóa” ở Việt Nam đã hình thành khá lâu và có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Cùng với quá trình mở cửa từ năm 1994 đến nay, đặc biệt sau khi Việt Nam tham gia WTO năm 2007, tốc độ tăng trưởng của ngành logistics nói chung luôn duy trì ở mức cao với 2 con số.

Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Các cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực đã được đẩy mạnh; môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi; các kết quả từ hợp tác kinh tế quốc tế… đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.

Cụ thể, theo báo cáo chuyên ngành logistics của Bộ Công Thương, đến cuối năm 2017, cả nước đã có 13 tuyến đường cao tốc, 146 tuyến đường quốc lộ chính với tổng chiều dài là 23.816km; 3.161km đường sắt; 44 cảng biển; 42 tuyến luồng hàng hải công cộng vào cảng quốc gia với tổng chiều dài là 935,9km và 10 luồng vào cảng chuyên dùng có khả năng tiếp nhận tàu hàng rời đến 200.000 DWT; 45 tuyến đường thủy nội địa quốc gia với tổng chiều dài khoảng 7.075km; 21 cảng hàng không đang khai thác. Lượng hàng hóa luân chuyển ngày càng tăng.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14% – 16%, có quy mô khoảng 40 – 42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm có khoảng 3.000 doanh nghiệp nội và còn khoảng có 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức.

Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể. Năm 2017 thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ. Việt Nam cũng đang đứng thứ 39/160 nước về chỉ số hoạt động logistics và đứng thứ 3 trong ASEAN chỉ sau Singapore và Thái Lan.

Bức tranh ngành dịch vụ logistics Việt Nam được ghép từ nhiều mảnh ghép khác nhau. Dù đã có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế song đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại để hướng tới.

Triển vọng và định hướng

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng đến nay năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam vẫn còn hạn chế bởi cơ sở hạ tầng cả phần cứng và phần mềm cũng như công nghệ quản lý và môi trường chính sách, quy mô và năng lực của doanh nghiệp, nguồn nhân lực… vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa để bắt kịp trình độ phát triển của các nước đối tác và đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

Theo dự báo, quy mô thị trường logistics toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình khoảng 6,54%/năm trong giai đoạn năm 2017 – 2020, và đạt 15,5 nghìn tỷ USD vào năm 2024, gần gấp đôi so với mức 8,2 nghìn tỷ USD vào năm 2016. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0, các xu hướng, công nghệ mới hình thành và phát triển hay thương mại điện tử đang và sẽ là nhân tố dẫn dắt chính sự phát triển của logistics toàn cầu trong thời gian tới với mức tăng trưởng cao, nhất là ở các nước châu Á.

Điều đáng mừng cho logistics Việt Nam là đã được Chính phủ, các bộ ngành và địa phương quan tâm, công tác truyền thông tiếp tục được đẩy mạnh. Cho đến nay, khung pháp lý và chính sách liên quan đến logistics đang dần hoàn thiện. Chúng ta cũng đã có quy hoạch, xây dựng kế hoạch hành động trong Quyết định số 200/QĐ-TTg với 60 nhiệm vụ thuộc 6 nhóm, bao gồm: Hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics; Hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics; Nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ; Phát triển thị trường dịch vụ logistics; Đào tạo, nâng cao nhận thức và chất lượng nguồn nhân lực; và các nhiệm vụ khác. Trong đó, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Hiệp hội VLA là những đơn vị được giao chủ trì nhiều nhiệm vụ nhất.

Mục tiêu của kế hoạch trên là đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8% – 10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15% – 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% – 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% – 20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt từ 50 trở lên.

Các chuyên gia cho rằng để đạt được kế hoạch đề ra, các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội, doanh nghiệp, địa phương cần tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ nêu trong Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt bỏ hoặc đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến logistics, đặc biệt là thủ tục kiểm tra chuyên ngành; Đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình hạ tầng logistics trọng điểm; Lồng ghép các hoạt động hội nhập và hợp tác trong khu vực với việc mở cửa thị trường, tiếp cận nguồn hàng từ các nước láng giềng, đồng thời với việc nâng cao chất lượng và chuẩn hóa dịch vụ logistics; Mở rộng mạng lưới đào tạo về logistics, đẩy mạnh tuyên truyền về logistics cho các cấp, các ngành và các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh; Tiếp tục hoàn thiện khung thể chế và bộ máy quản lý nhà nước hỗ trợ logistics phát triển; Đa dạng hóa nguồn vốn phát triển hạ tầng logistics dưới các hình thức khác nhau; Tăng cường liên kết để cùng phát triển, tạo dựng thương hiệu logistics Việt Nam.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Hải quan Bình Định gỡ vướng cho gần 150 doanh nghiệp

Sáng ngày 08.11.2018, Cục Hải quan Bình Định đã tổ chức Hội nghị đối thoại Hải quan – Doanh nghiệp lần thứ 2 năm 2018 nhằm giải đáp, tháo gỡ cho gần 150 doanh nghiệp XNK trên địa bàn 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên.

Tham dự hội nghị có đại diện lãnh đạo Cục Hải quan Bình Định, Cục Thuế Bình Định, Sở Công Thương Bình Định, Chi cục kiểm dịch thực vật vùng 4, Kho bạc Nhà Nước tỉnh Bình Định và nhiều ngân hàng thương mại cùng hơn 150 đơn vị là doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực Xuất nhập khẩu, vận tải trên 2 địa bàn tỉnh Phú Yên và Bình Định.

Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định Nguyễn Văn Đông giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệpCục trưởng Cục Hải quan Bình Định Nguyễn Văn Đông giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệp

Tại hội nghị, Cục Hải quan Bình Định đã giải đáp thắc mắc của các DN xung quanh các thủ tục hành chính và việc thực hiện theo Nghị định 59/2018/NĐ – CP ngày 20/4/2018 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2015/NĐ – CP ngày 21/01/2015, và Thông tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20/4/2018 của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, Cục Hải quan Bình Định còn triển khai rộng rãi Hệ thống giám sát tự động đã được triển khai thành công tại cảng Quy Nhơn trên cả 2 địa bàn Phú Yên và Bình Định.

Cũng trong hội nghị, đại diện Cục Thuế Bình Định và các ngân hàng thương mại đã hướng dẫn, giải đáp thêm một số nội dung liên quan đến chính sách thuế nội địa, đồng thời khuyến khích các DN thực hiện nộp thuế điện tử qua ngân hàng phối hợp thu và thông quan 24/7.

Ông Nguyễn Văn Đông – Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định, đã đánh giá cao tinh thần hợp tác của các DN, báo cáo cho Tổng cục Hải quan những ý kiến, kiến nghị của DN để xem xét giải quyết, phản hồi theo đúng quy định. Cùng với đó, Cục Hải quan Bình Định cũng sẽ tăng cường các kênh thông tin để DN kịp thời cập nhật và áp dụng chính sách, quy định mới liên quan đến hoạt động hải quan; góp phần tiết kiệm được chi phí và hạn chế được rủi ro.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Nhiều Doanh nghiệp vận tải TP HCM khó khăn, giải thể vì giá nhiên liệu và phí, thuế

Từ đầu năm đến nay, giá nhiên liệu liên tục tăng cao, khiến doanh nghiệp vận tải hàng hóa tại TPHCM gặp khó, nhiều doanh nghiệp phải giải thể.

Theo ông Lâm Đại Vinh, chủ một doanh nghiệp vận tải lớn, doanh nghiệp của ông đang phải “co mình lại”, hoạt động cầm chừng và chỉ mong không lỗ để duy trì hoạt động. Ngoài vận chuyển thì doanh nghiệp đang mở rộng ra các lĩnh vực khác, như: Cung cấp dịch vụ, cho thuê xe…

Theo lý giải của doanh nghiệp này, khoảng 3 năm gần đây giá dầu tăng cao, từ mức 12.000 đồng/lít nay tăng lên 18.000 đồng/lít (chênh nhau 6.000 đồng), dẫn đến chi phí cho một chuyến xe tăng lên.

Trong khi đó, giá dịch vụ lại không đổi, thậm chí còn giảm so với thời điểm 3 năm trước, dẫn đến doanh nghiệp phần lớn làm ăn không có lãi, thậm chí là lỗ. Thêm nữa nhiều khoản phí liên tục tăng cao như: phí cầu đường, phí bảo trì đường bộ, xin giấy phép, đầu tư thiết bị giám sát hành trình, ra đường thì kẹt xe, ùn tắc dẫn tới thời gian hoạt động ngoài đường giảm từ 10 giờ/ngày xuống còn 4-5 giờ/ngày.

Xe phải dừng đỗ trên đường vì kẹt xe dẫn đến chi phí kéo dài, chi phí cho nhiên liệu trên một chuyến đi thường chiếm 30-40% tổng chi phí nhưng hiện nay con số này có thể vượt qua mốc 40%. Xe nằm bãi cũng phải tốn nhiều chi phí bảo trì… Ngoài ra, việc các cơ quan chức năng thường xuyên thay đổi quy định về thông số kỹ thuật của container, thùng hàng… dẫn đến nhiều doanh nghiệp lao đao vì phải chạy theo để thay đổi.

Doanh nghiệp vận tải mong các cơ quan nhà nước có biện pháp để ổn định hoạt động.Doanh nghiệp vận tải mong các cơ quan nhà nước có biện pháp để ổn định hoạt động.

“Hiện nay, doanh nghiệp đang thu hẹp quy mô sản xuất, không mở rộng. Mục tiêu của doanh nghiệp là hòa vốn, duy trì được bộ máy và tìm ngành nghề khác để hoạt động. Các doanh nghiệp vận tải đang có xu hướng như vậy, người thì mua bất động sản, cho thuê, chứng khoán, mở quán ăn… Nói chung dịch vụ vận tải đang gặp nhiều khó khăn”, ông Vinh nói.

“Hiện giờ giá xăng dầu tăng như vậy nhưng giá cước vận chuyển lại không tăng, BOT giữ nguyên hoặc tăng lên là bất hợp lí. Một chuyến hàng từ Cát Lái đi Cái Mép – Thị Vải chỉ khoảng 3 triệu mà phí cầu đường đã 600-700.000 đồng, thêm nữa, giá cước xăng dầu tăng cao như vậy thì doanh nghiệp vận tải bị lỗ. Loại hình container như vậy rất khó khăn nên nhà nước cần có chính sách hỗ trợ”, ông Đỗ Xuân Phú cho biết..Ông Đỗ Xuân Phú, Giám đốc Công ty Minh Liên cũng ngao ngán khi nói đến hoạt động kinh doanh vận tải hiện nay. Ngoài vấn đề chung về chi phí giá nhiên liệu tăng cao trong khi giá dịch vụ lại đi xuống, các doanh nghiệp vận tải container tại TP. HCM còn gặp nhiều khó khăn về bến bãi đậu xe, các loại cước phí cầu đường quá cao áp lên đầu doanh nghiệp vận tải khiến họ “không thở nổi”. Các doanh nghiệp kinh doanh vận tải đã nhiều lần kiến nghị về việc giảm phí, thuế, và ổn định giá nhiên liệu nhưng chưa được giải quyết thấu đáo.

Theo Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP. HCM, hiện nay các doanh nghiệp vận tải trên địa bàn đang gặp rất nhiều khó khăn. Con số từ chỗ vài trăm doanh nghiệp tham gia hiệp hội trước kia đã giảm còn khoảng 100 doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp phải giảm quy mô hoạt động xuống còn một nửa, hoặc chuyển đổi sang loại hình khác. Trong đó, vẫn còn nhiều doanh nghiệp đang “đi vào ngõ cụt” bởi nợ ngân hàng, hoạt động thì không lời nhưng vẫn phải duy trì vì đã trót lỡ vay tiền ngân hàng đầu tư, giờ bán phương tiện cũng không ai mua hoặc có mua thì giá phương tiện cũng chỉ còn 1/3 so với trước, cá biệt có phương tiện chỉ định giá với mức bán phế liệu.

So với lần điều chỉnh giá nhiên liệu từ đầu năm, hiện nay, giá nhiên liệu đang có độ chênh tới gần 3.000 đồng, gây khó cho doanh nghiệp. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Chánh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Vận tải hàng hóa TPHCM đề nghị Nhà nước cần phải có biện pháp để giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc thương thảo, đảm bảo hoạt động: “Giá nhiên liệu tăng nhưng cước vận tải không tăng nên doanh nghiệp cũng bức xúc. Mong rằng thời gian tới, Nhà nước sẽ ổn định giá nhiên liệu, nếu có biến động thì dùng quỹ bình ổn và các hình thức khác để ổn định nhiên liệu”.

Thực tế của các doanh nghiệp vận tải hiện nay cho thấy, đây là hậu quả của việc phát triển rầm rộ của ngành vận tải những năm trước đó khi cung vượt quá cầu. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ can thiệp của các cơ quan quản lý để doanh nghiệp vận tải có thể vượt qua khó khăn, tiếp tục duy trì hoạt động, đóng góp nhiều cho nền kinh tế./.

Theo  Hà Khánh VOV

Sôi động, hứng khởi với Vietnam Young Logistics Talents 2018

Được tạo ra với mục đích trở thành một sân chơi thiết thực dành cho sinh viên có niềm đam mê logistics và nâng cao nhận thức của giới trẻ về tầm quan trọng của ngành, cuộc thi “Vietnam Young Logistics Talents 2018”, do Bộ Công thương phối hợp cùng Mạng lưới đào tạo Logistics Việt Nam tổ chức, đang thu hút sự quan tâm của hàng chục ngàn sinh viên trên khắp cả nước. Nếu bạn là một sinh viên đam mê với Logistics đang tìm kiếm cơ hội tiếp cận với thực tế và khẳng định bản thân thì cuộc thi “Vietnam Young Logistics Talents 2018” chính là một lựa chọn thích hợp dành cho bạn.

Vietnam Young Logistics Talents 2018 – Bắt đầu từ ngày hội “Information Day”

Ngay từ những ngày đầu tiên, khi lễ phát động được tổ chức, cuộc thi đã thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong ngành, các thầy cô giáo và đông đảo các bạn sinh viên đến từ các trường đại học, cao đẳng ở cả 2 điểm cầu là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Tại đây, chương trình đón nhận sự trao đổi thẳng thắn giữa doanh nghiệp và sinh viên về nhu cầu nhân lực và định hướng nghề nghiệp trong ngành logistics; đồng thời, giải đáp những thắc mắc của thí sinh về thông tin của cuộc thi.

Vòng thi Test online – Với nhiều sự bất ngờ

Logistics là một ngành mới nổi trong vài năm trở lại đây tại Việt Nam và cũng là lần đầu tiên, một cuộc thi về logistic được tổ chức với quy mô toàn quốc. Nhưng chỉ trong vòng 1 tuần mở cổng thi vòng loại trực tuyến (8/9 -16/9/2018), hệ thống của cuộc thi đã ghi nhận sự tham gia của hàng trăm nhóm thí sinh đến từ 28 trường Đại học, Cao đẳng trên cả nước với gần 1000 lượt thi. Thứ hạng của các đội thi đã liên tục thay đổi và bất ngờ hơn nữa, các đội tham gia còn là từ những trường chưa hề có hoạt động đào tạo về logistics. Điều này chứng tỏ sự quan tâm rất lớn từ phía cộng đồng sinh viên Việt Nam đối với lĩnh vực này.

Chung kết cấp trường – “vỡ òa” khi được trở thành đại diện duy nhất đi vào vòng trong

Vòng thi chung kết cấp trường đã chứng kiến rất nhiều niềm vui, sự phấn khích của các nhóm thí sinh khi trải qua rất nhiều phần thi kịch tính và cuối cùng, được trở thành đại diện duy nhất của trường mình tham dự Vòng Bán kết khu vực cuộc thi “ Vietnam Young Logistics Talents 2018”. Và chắc chắn, không thể không nhắc đến Vòng chung kết của Đại học Giao thông Vận tải (Hà Nội) và Đêm chung kết của trường Đại học Ngoại thương (Cơ sở 1), vượt qua hơn 40 đội tham dự, những cái tên sáng giá đã được ghi danh.

Liệu cái tên nào sẽ tỏa sáng trong vòng thi Bán kết khu vực sắp tới?

Vào ngày 27/09 tới đây, tại cả hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh sẽ chính thức diễn ra Vòng thi Bán kết khu vực cuộc thi “Vietnam Young Logistics Talents 2018”. Sẽ có những đội được đi tiếp nhưng cũng có những cái tên sẽ dừng lại. Dù vậy, điều giá trị nhất mà các bạn sinh viên nhận được qua cuộc thi này, có lẽ là cơ hội được trau dồi kiến thức từ bạn bè, thầy cô và quan trọng hơn, đó là được học hỏi từ chính những người đi trước, những anh chị đã có nhiều kinh nghiệm “chinh chiến thực tế “ trong ngành.

Cùng chờ đón Vòng thi bán kết khu vực, “Tài năng trẻ Logistics Việt Nam 2018” chắc chắn sẽ có nhiều bất ngờ kịch tính dành cho cuối tuần của bạn. Cuộc thi cũng gửi lời cảm ơn đến các doanh nghiệp: Tập đoàn U&I Logistics, Hãng hàng không Vietjet, Công ty cổ phần Bee Logistics, Công ty KSE High-Tech, Công ty Delta International, Công ty Vitranimex, Công ty CP Biển Đông, Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam, Công ty Uni-Depot, Khu CX Tân Thuận, Công ty S&F Express, Công ty cổ phần vận tải và thương mại đường sắt Ratraco đã đồng hành và ủng hộ cuộc thi trong suốt thời gian vừa qua.

Theo: Vietnam Logistics Review