Quy mô vốn & lợi thế của doanh nghiệp logistics

Trong kinh doanh, quy mô vốn là một lợi thế mà DN cần có để tạo ra sức cạnh tranh đủ lớn để thực hiện các chiến lược phát triển. Bài viết phân tích quy mô vốn tối ưu đối với các DN logistics Việt Nam trong giai đoạn (2011 – 2015) từ đó đưa ra một số định hướng chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành cũng như cả nền kinh tế ngày nay.

Trong kinh doanh, quy mô vốn là một lợi thế mà DN cần có để tạo ra sức cạnh tranh đủ lớn để thực hiện các chiến lược phát triển. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa vốn càng nhiều thì càng có lợi thế cạnh tranh và có kết quả kinh doanh hiệu quả. Quy mô vốn cần phải tương thích với năng lực cốt lõi, sức mạnh của sản phẩm dịch vụ, cấu trúc của thị trường… Bài viết phân tích quy mô vốn tối ưu đối với các DN logistics Việt Nam trong giai đoạn (2011 – 2015) từ đó đưa ra một số định hướng chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành cũng như cả nền kinh tế.

Mức vốn phổ biến  

Phân tích bảng 1, ta có số lượng các DN logistics tại Việt Nam tương ứng với các mức vốn: mức vốn có số lượng DN nhiều nhất là mức từ 1 – 5 tỷ (khoảng 8.000 DN, năm 2011 và tăng lên trên 10.500 nghìn DN, năm 2015). Số DN có vốn trên 200 – 500 tỷ, chỉ có khoảng dưới 200 DN, và số DN có vốn trên 500 tỷ xấp xỉ trên dưới 100 DN. Số lượng DN có mức vốn 5 – 10 tỷ và 10 – 50 tỷ chiếm tỷ trọng thứ hai. Số lượng DN ở quy mô này có sự tăng dần qua từng năm, cho thấy đây là mức quy mô được nhiều DN lựa chọn để hoạt động. (Bảng 1)

Bảng 1. Số lượng DN logistics theo quy mô vốn (Nguồn: VLA)

Xét về tình hình lãi lỗ toàn ngành, có thể thấy tổng lãi có tăng lên qua các năm. Trong khi đó, mức lỗ tương đối ổn định ở mức từ 11,5 – 13 nghìn tỷ. Do đó, lãi thuần của ngành cũng có tăng, giảm và trong hai năm 2014 – 2015 hoạt động của ngành khá hiệu quả với lãi thuần dương (cụ thể đạt khoảng 11 nghìn tỷ năm 2014 và đạt 17,4 nghìn tỷ năm 2015). (Bảng 2)

Bảng 2. Tình hình lãi lỗ  của DN logistics Việt Nam 

(Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng Cục Thống kê)

Quy mô vốn nào thích hợp?

Dựa vào tính toán của tác giả, có thể thấy quy mô vốn dưới 1 tỷ là mức tối ưu nhất cho các DN logistics Việt Nam tương ứng với bối cảnh của ngành trong giai đoạn (2011 – 2015), ở mức này, các DN lãi trung bình 8,59 tỷ. Kế tiếp là quy mô vốn từ 10 đến dưới 200 tỷ có mức lãi là 19 tỷ. Các quy mô vốn còn lại, thường ở mức lỗ với mức độ -1,5; 4,06 và -275,76 tỷ tương ứng với các mức 1 – 5 tỷ, 5 – 10 tỷ, và trên 200 tỷ.

Điều này cho thấy môi trường kinh doanh ở Việt Nam phù hợp với DN logistics quy mô nhỏ, hoạt động dựa trên việc cung cấp các dịch vụ có trình độ vừa phải, kết hợp làm đại lý hay đầu mối chứ không phải là DN lớn có đầy đủ các bộ phận chức năng  để cung cấp dịch vụ trọn gói. Mặc dù vậy, mức lợi nhuận 19 tỷ do quy mô DN từ 10 – 200 tỷ cũng cho thấy cần có những DN quy mô khá để cung cấp cho phân khúc các khách hàng cần dịch vụ trọn gói. Tuy nhiên, các kết quả này không có nghĩa là chỉ có 2 mức quy mô trên có lãi thuần, còn quy mô khác thì lỗ mà nhận định có thể rút ra ở đây là cơ cấu các DN logistics Việt Nam tương ứng với các quy mô vốn là chưa ổn (chưa nói đến cấu trúc tối ưu). Cần có sự tính toán để số lượng các DN logistics trong ngành là phù hợp tương ứng với việc các DN này có quy mô vốn hiệu quả.

Định hướng phát triển

Từ việc xác định được hiệu quả thật sự của các mức quy mô vốn của các DN logistics Việt Nam, một số định hướng về chiến lược vốn có thể cần thực hiện trong thời gian tới là như sau:

– Tổ chức lại cơ cấu của ngành theo quy mô các DN một cách hợp lý. Khuyến khích thị trường thực hiện hoạt động nhập hoặc tách DN một cách hợp lý để tạo ra các thành phần hoạt động hiệu quả.

– Có chính sách thích hợp để thực hiện cấu trúc vốn hiệu quả và hợp lý. Hiện nay, mối liên hệ giữa quy mô vốn và hiệu quả là chưa rõ ràng. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là mối quan hệ này có quy luật và cần thực hiện việc nghiên cứu xác định được mối liên hệ phổ biến để có thể hoạch định hiệu quả việc phân bổ nguồn lực, phân bổ vốn thích hợp, tạo nên các phân khúc hoạt động hiệu quả nhất, tạo nên một cấu trúc phát triển bền vững của lĩnh  vực logistics.

– Điều tiết dòng vốn tín dụng của ngân hàng, các nguồn vốn trung và dài hạn khác để phân bổ vào ngành một cách hiệu quả.

– Cải thiện tính chất và trình độ của DN logistics theo hướng ngày càng tinh và có sức cạnh tranh mạnh với năng lực cốt lõi phù hợp với yêu cầu thị trường trong nước và hướng đến phát triển ra ngoài lãnh thổ.

– Trước mắt, có thể thực hiện việc đánh giá sâu vai trò của vốn trong mối quan hệ với cách thức vận hành của các DN, khách hàng và các chủ thể khác trong lĩnh vực logistics, để xác định những cách thức và quy mô hoạt động hiệu quả nhất nhằm xây dựng các chương trình hỗ trợ. Như trong bài phân tích này, các DN logistics có quy mô vốn nhỏ lại hoạt động có hiệu quả cao, đạt những kết quả hoạt động kinh doanh tích cực, nên chăng việc xây dựng chiến lược có thể bắt đầu từ nền tảng của DN quy mô vốn dưới 1 tỷ?

Theo: Vietnam Logistics Review.

Đồng chí Trần Quốc Vượng: “Cần quản lý hầm đường bộ Đèo Cả – an toàn, thông suốt và hiệu quả”

Nhân chuyến công tác tại tỉnh Phú Yên, chiều 4.7.2018, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã đến thăm và làm việc với cán bộ – công nhân viên Công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả đang làm nhiệm vụ quản lý, vận hành hầm đường bộ Đèo Cả (hầm Đèo Cả). Cùng đi có đồng chí Huỳnh Tấn Việt, Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Phú Yên và các đồng chí trong đoàn công tác Trung ương Đảng.

Hầm Đèo Cả nằm giữa hai tỉnh Khánh Hòa – Phú Yên do Công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả làm chủ đầu tư theo hình thức BOT. Công trình được khởi công vào tháng 11.2012 và hoàn thành đưa vào khai thác từ ngày 21.8.2017.

Dự án có tổng mức đầu tư ban đầu hơn 15.600 tỷ đồng. Trong quá trình triển khai khảo sát, Công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả đã đề xuất điều chỉnh hướng tuyến, giảm chiều dài hai tuyến hầm từ 5,7km xuống còn 4,3km, giảm tổng mức đầu tư xuống còn hơn 11.000 tỷ đồng, tiết kiệm được 4.200 tỷ đồng và đưa công trình về đích trước 4 tháng so với kế hoạch.

Sau khi hầm Đèo Cả đưa vào khai thác, thời gian qua hầm chỉ còn hơn 10 phút, thay vì 45 phút đi bằng đường đèo; đảm bảo an toàn giao thông, xóa bỏ những điểm đen nguy hiểm, dễ xảy ra tai nạn trên đường đèo quanh co hiểm trở. Ngoài ra còn giúp nâng cao năng lực vận tải đường bộ, tạo thuận lợi cho lưu thông giữa miền Trung và khu vực phía Nam Trung bộ, nhất là giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Hầm đường bộ Đèo Cả là một trong 5 công trình được được Bộ Xây dựng chọn gắn biển Công trình tiêu biểu Quốc gia năm 2018.

Đồng chí Trần Quốc Vượng thăm Trung tâm Quản lý vận hành hầm Đèo Cả

Trong thời gian thi công, vào đầu tháng 5.2016 công trình hầm Đèo Cả đã vinh dự được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm, động viên. Tổng Bí thư đã biểu dương nhà đầu tư trong việc đứng ra đảm nhận thực hiện dự án hầm Đèo Cả bằng hình thức BOT và nhấn mạnh, việc đầu tư hạ tầng giao thông bằng hình thức BOT là một chủ trương đúng đắn, cần thiết và nhất quán của Đảng và Chính phủ nhằm huy động nguồn lực xã hội hóa trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, trong một lần đến thăm công trình cũng đã khẳng định sự tin tưởng của Đảng, Chính phủ đối với dự án này. Thủ tướng cho rằng, đây là công trình lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng về kinh tế – xã hội khi lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động nguồn vốn, nghiên cứu ứng dụng và làm chủ công nghệ thi công đường hầm, đạt các tiêu chí kỹ thuật và chất lượng quốc tế.

Sau khi đi thị sát hầm Đèo Cả và hầm Cổ Mã (thuộc dự án hầm Đèo Cả), đồng chí Trần Quốc Vượng cùng đoàn công tác đã đến thăm Trung tâm quản lý vận hành hầm Đèo Cả. Phát biểu với CB-CNV tại đây, đồng chí Trần Quốc Vượng đã biểu dương ghi nhận ý chí, tính sáng tạo và sự cống hiến to lớn Công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả trong việc đầu tư BOT dự án có quy mô lớn này. Đồng chí cũng khẳng định Đảng và Chính phủ luôn quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhà đầu tư đứng ra đảm nhận các dự án hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Đồng thời đề nghị Công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả tiếp tục làm tốt công tác quản lý, vận hành và khai thác có hiệu quả; đảm bảo giao thông luôn an toàn, thông suốt và thuận lợi cho hầm đường bộ Đèo Cả nói riêng và các hầm đường bộ khác do Công ty đảm trách.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2018 tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017

Theo số liệu mới công bố của Tổng cục Thống kê, vận tải hàng hóa tháng 6/2018 ước tính đạt 136,3 triệu tấn, tăng 0,9% so với tháng trước và 25,4 tỷ tấn.km, tăng 1%.

Tính chung 6 tháng, vận tải hàng hóa đạt 796,2 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước và 147,9 tỷ tấn.km, tăng 6,6%, trong đó vận tải trong nước đạt 779,4 triệu tấn, tăng 9,5% và 79,6 tỷ tấn.km, tăng 9,7%; vận tải ngoài nước đạt 16,8 triệu tấn, tăng 2,3% và 68,3 tỷ tấn.km, tăng 3,2%.

Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 614,5 triệu tấn, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước và 40,5 tỷ tấn.km, tăng 10,4%; đường thủy nội địa đạt 140,7 triệu tấn, tăng 7,4% và 29,7 tỷ tấn.km, tăng 7%; đường biển đạt 38 triệu tấn, tăng 4,4% và 75,4 tỷ tấn.km, tăng 4,3%; đường hàng không đạt 176,4 nghìn tấn, tăng 14,8% và 463,2 triệu tấn.km, tăng 13,2%; đường sắt đạt 2,9 triệu tấn, tăng 4,1% và 1,9 tỷ tấn.km, tăng 13,5%.

Vận tải hành khách tháng Sáu ước tính đạt 387,9 triệu lượt khách, tăng 1,5% so với tháng trước và 17,4 tỷ lượt khách.km, tăng 2,4%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, vận tải hành khách đạt 2.262,4 triệu lượt khách, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước và 100,2 tỷ lượt khách.km, tăng 10,6%, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 2.134,8 triệu lượt khách, tăng 10,1% và 69,5 tỷ lượt khách.km, tăng 10,5%; đường thủy nội địa đạt 94,9 triệu lượt khánh, tăng 5,9% và 1.797,8 triệu lượt khách.km, tăng 6%; đường biển đạt 3,6 triệu lượt khách, tăng 6,1% và 216,3 triệu lượt khách.km, tăng 6,7%; đường hàng không đạt khá với 24,6 triệu lượt khách, tăng 15,2% và 26,7 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5% do hiện nay các hãng hàng không đã mở thêm một số đường bay quốc tế, đồng thời đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa.

Vận tải đường sắt trong thời gian gần đây xảy ra nhiều tai nạn nghiêm trọng, cùng với việc giá vé tàu không cạnh tranh được với hàng không giá rẻ và vận tải ô tô đường bộ nên 6 tháng ước tính đạt 4,5 triệu lượt khách, giảm 10,6so với cùng kỳ năm trước và 1,9 tỷ lượt khách.km, giảm 4,5%.

 

Nguồn: logistics.gov.vn

Blockchain cách mạng hóa vận tải đường biển

Toàn cầu hóa đã cho ra đời các mạng lưới thương mại tiên tiến với các tàu chở hàng lớn và nhanh, các cảng điều khiển bằng robot, các cơ sở dữ liệu máy tính theo dõi hàng hóa khổng lồ. Tuy vậy, tất cả vẫn dựa trên hàng triệu hồ sơ giấy.

Quy trình xử lý hồ sơ thương mại từ thế kỷ 19 này sắp đến hồi kết. A P Moeller-Maersk A/S và các hãng tàu container khác đã hợp tác với các công ty công nghệ nhằm nâng cấp mạng lưới logistics phức tạp nhất thế giới.

Kết quả là một cuộc cách mạng trong thương mại toàn cầu diễn ra trên quy mô chưa từng thấy kể từ bước chuyển sang container tiêu chuẩn những năm 1960 – một sự thay đổi đánh dấu thời đại toàn cầu hóa. Nhưng quá trình thực hiện cũng phức tạp như biến động tiềm năng to lớn mà nó mang lại. Để tạo ra thay đổi, hàng chục hãng tàu và hàng ngàn doanh nghiệp có liên quan trên khắp thế giới – bao gồm các nhà sản xuất, ngân hàng, công ty bảo hiểm, môi giới và quản lý cảng biển – sẽ phải tìm ra một giao thức có thể tích hợp tất cả các hệ thống mới vào một nền tảng chung khổng lồ.

Nếu họ thành công, tài liệu cần vài ngày sẽ được xử lý chỉ trong vài phút, phần lớn không cần sự can thiệp của con người. Chi phí vận chuyển hàng hóa xuyên châu lục sẽ giảm đáng kể, thêm động lực để di dời sản xuất hoặc nguyên liệu và hàng hóa từ nước ngoài.

Ông Rahul Kapoor, một chuyên gia phân tích tại Bloomberg Intelligence, Singapore cho biết:    “Đây sẽ là cải tiến lớn nhất trong ngành công nghiệp kể từ cách mạng container. Về cơ bản nó thúc đẩy sự minh bạch và hiệu quả. Các hãng tàu container đang dần ra khỏi vỏ ốc và cố gắng bắt kịp với công nghệ.”

Cũng như trong nhiều ngành công nghiệp khác, từ tàu chở dầu đến tiền điện tử, chính là blockchain – hệ thống kế toán điện tử tự động xác minh giao dịch và lợi ích sẽ không chỉ gói gọn trong hoạt động giao nhận đường biển. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới, sử dụng blockchain để cải thiện thông tin liên lạc và quản trị biên giới có thể tạo ra thêm 1 nghìn USD cho thương mại toàn cầu.

Công ty APL Ltd. thuộc sở hữu của hãng container lớn thứ ba thế giới CMA CGM SA, cùng với AnheuserBusch InBev NV, Accenture Plc (một tổ chức hải quan châu Âu) và các công ty khác cho biết họ đã thử nghiệm một nền tảng dựa trên blockchain vào tháng ba. Công ty Hyundai Merchant Marine, Hàn Quốc cũng đã thử nghiệm nền tảng mới trên hệ thống phát triển cùng Công ty Samsung SDS.

Quá trình xử lý hồ sơ giao nhận bắt đầu khi chủ hàng đặt chỗ trên tàu chuyển hàng. Hồ sơ cần được điền đầy đủ và phê duyệt trước khi hàng hóa được chuyển vào hoặc ra khỏi cảng. Chỉ một lô hàng cũng có thể cần đến hàng trăm trang, gửi đến hàng chục cơ quan, ngân hàng, cơ quan hải quan và các tổ chức khác.

Năm 2014, Maersk theo dấu một contrainer lạnh vận chuyển hoa hồng và bơ từ Kenya đến Hà Lan. Công ty ghi nhận có gần 30 người và tổ chức tham gia vào việc xử lý kiện hàng trên hành trình đến châu Âu. Kiện hàng mất khoảng 34 ngày để đi từ trang trại đến các nhà bán lẻ, bao gồm 10 ngày chờ xử lý tài liệu. Một trong những hồ sơ quan trọng bị thất lạc và sau đó được tìm thấy nằm lẫn trong các giấy tờ khác.

“Các thủ tục giấy tờ quan trọng trong thương mại toàn cầu cũng chính là một trong những gánh nặng của nó – theo Maersk, công ty vận tải container lớn nhất thế giới. Maersk đã hợp tác với International Business Machines Corp để cho phép theo dõi hàng hóa và tài liệu theo thời gian thực sử dụng blockchain. “Nghiên cứu về thủ tục hồ sơ do Maersk tiến hành cho thấy mức độ ảnh hưởng mà tài liệu và thủ tục giấy tờ gây ra cho thương mại và hậu quả của chúng.”

Thủ tục giấy tờ rườm rà là một trong những lý do khiến vận chuyển hàng hóa đường biển chậm chuyển đổi sang các hình thức điện tử hơn so với các ngành công nghiệp khác. Khác biệt ngôn ngữ, điều luật và sự đa dạng các tổ chức có liên quan trong quá trình chuyển hàng trong quá khứ cũng làm chậm quá trình tiêu chuẩn hóa.

Thay vào đó, ngành công nghiệp dựa vào những tiến bộ trong công nghệ vận tải và xử lý hàng hóa để nâng cao hiệu quả, ví dụ như thuyền buồm cao tốc được thay thế bằng tàu hơi nước và sau đó là các tàu thủy hiện đại chạy bằng dầu – loại tàu lớn nhất trên biển. Vào những năm 1850, các rương chè từ miền nam Trung Quốc đến London cần hơn ba tháng để vận chuyển. Hiện nay, hành trình đó chỉ mất khoảng 30 ngày.

Thay đổi lớn nhất diễn ra vào những năm 1960, khi ngành công nghiệp chuyển sang sử dụng các hộp thép kích thước tiêu chuẩn như ngày nay, thay thế các thùng gỗ, rương và bao tải mà nhân công phải bốc xếp lên tàu trong nhiều thế kỷ.

Việc chuyển đổi sang một hệ thống điện tử thống nhất đề ra những thách thức lớn, khi mà những container này đôi khi chứa sản phẩm từ các nhà cung cấp khác nhau và được vận chuyển đến hàng ngàn khách hàng ở hàng chục quốc gia.

Công ty APL cho biết: “Không phải tất cả các bên liên quan đều triển khai cùng một giải pháp và nền tảng blockchain, và đây có thể là một thách thức nếu các bên cần tiến hành giao dịch thông qua một nền tảng hoặc giải pháp chung.”

Các hãng tàu cần phải thuyết phục các cảng và tổ chức có liên quan áp dụng hệ thống của họ. Maersk cho biết nhà điều hành cảng tại Singapore PSA International Pte. và APM Terminals có trụ sở tại The Hague, Hà Lan sẽ sử dụng nền tảng của họ để giao dịch. APL và Accenture cho biết họ có kế hoạch chạy thử sản phẩm vào cuối năm nay. Accenture cho biết đã thử nghiệm công nghệ này với các lô hàng thí điểm khác, từ bia đến vật tư y tế.

Ông Kapoor từ Bloomberg Intelligence còn cho biết các khoảng tiết kiệm chi phí có thể nhìn thấy được trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp sau hai năm áp dụng công nghệ mới.

K D Adamson, Giám đốc điều hành của Futurenautics Group cho biết: “Ngành vận chuyển đường biển đừng nghĩ rằng mình chỉ là mảng trung gian độc lập, mà thay vào đó hãy xem xét làm cách nào tích hợp hài hòa các yếu tố của ngành vào các hệ sinh thái khác.”

Theo: economictimes.indiatimes.com

Xu hướng đi lên của thị trường logistics 3PLs Mỹ năm 2018

Theo báo cáo gần đây của hãng tư vấn chuỗi cung ứng Armstrong & Associates, các điều kiện thị trường tốt và các yếu tố nền tảng kinh tế tích cực đã giúp thị trường logistics bên thứ 3 (3PLs) của Mỹ tăng trưởng mạnh trong năm 2017 và tiếp tục xu hướng này trong năm 2018.

Báo cáo “Xu hướng đi lên của thị trường logistics 3PLs Mỹ năm 2018”  cho thấy doanh thu thuần năm 2017 của thị trường 3PLs của Mỹ tăng 5% lên 77,1 tỷ đô la, còn tổng doanh thu gộp tăng 10,5% lên 184,3 triệu đô la.

Doanh thu vận chuyển hợp đồng chuyên dụng (DCC) tăng 10,2%, cao hơn mức tăng trưởng hàng năm 7% từ năm 1995 trở lại và chủ yếu do tăng trưởng ở lĩnh vực đường bộ.

Doanh thu gộp vận tải nội địa của Mỹ tăng 16%, đạt mức 71,7 tỷ đô la với doanh thu thuần tăng 6,4% lên 10,9 tỷ đô la. Sự chênh lệch về tốc độ tăng trưởng phản ánh mức độ biên lợi nhuận gộp liên quan đến tốc độ tăng tải của xe tải trong quý 3 và quý 4 năm 2017 yêu cầu các nhà môi giới vận chuyển hàng hóa phải trả mức tăng cước cho các hãng vận tải nhanh hơn là họ có thể thương lượng tăng với các chủ hàng.

Doanh thu gộp vận tải quốc tế tăng 10,5% nhưng doanh thu thuần chỉ tăng 4,3%, chủ yếu do sự tăng trưởng thấp hơn của lĩnh vực hàng không.

Doanh thu gộp của hoạt động phân phối và kho, bãi (có giá trị gia tăng) và doanh thu thuần đều tăng 2,5%, lợi nhuận biên bị tác động bởi năng lực kho bãi.

Xu hướng thuận lợi tiếp tục trong năm 2018, doanh thu thuần lĩnh vực 3PLs dự báo sẽ tăng trưởng khoảng  5% còn doanh thu gộp tăng khoảng 10%. Một số công ty 3PLs đang tiếp tục đầu tư thêm xe tải, bất chấp quan ngại thị trường sẽ đi xuống trong năm 2019 theo chu kỳ, sau khi đã tăng trưởng tốt trong 2 năm trước đó và áp lực cạnh tranh trên thị trường lớn hơn.

Theo: logistics.gov.vn

Cải cách hành chính: Kỳ vọng đột phá cho ngành logistics

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, hàng loạt Bộ ngành đã vào cuộc cắt giảm các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Đây được xem là bước tiến đáng kể thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và là kỳ vọng cho ngành logistics có bước đột phá trong tương lai gần.

Những tín hiệu mừng

Theo các chuyên gia, hoạt động logistics có liên quan đến nhiều ngành, chịu tác động của nhiều yếu tố như hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ, thể chế… Vì vậy đi cùng với đầu tư hoàn thiện hạ tầng, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương, Tài chính, Giao thông vận tải… đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp phát triển.

Tiếp nối kết quả của năm 2017, mới đây Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 1408/QĐ-BCT phê duyệt Phương án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính năm 2018. Theo đó cắt giảm, đơn giản hóa tiếp 54 thủ tục hành chính đối với 10 lĩnh vực, tại 19 văn bản quy phạm pháp luật, gồm 10 Thông tư, 1 Thông tư liên tịch, 1 Quyết định của Thủ tướng và 7 Nghị định, góp phần nâng tổng số điều kiện, thủ tục cắt giảm là 729 điều kiện, chiếm tới gần 60% tổng các điều kiện đầu tư kinh doanh do Bộ Công Thương quản lý.

Cũng trong tháng 4.2018, Bộ Giao thông vận tải đã có Quyết định số 767/QĐ – BGTVT ngày 17.4.2018  công bố phương án cắt giảm, đơn giản 384/570 điều kiện kinh doanh, tương đương 67,36% các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải. Cụ thể, lĩnh vực hàng không cắt giảm, đơn giản lên tới 74,36%, kế đến là đường sắt với 73,08%, đường bộ là 68,5%, đường thủy là 67,34%, hàng hải 65,08%, kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức và kinh doanh dịch vụ vận chuyển hàng nguy hiểm 61,74%…

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong giai đoạn từ 2014 đến 31.3.2018, Bộ đã thực hiện rà soát cắt giảm, đơn giản hóa 1.072 thủ tục hành chính của ngành Tài chính (thuế, hải quan, kho bạc, chứng khoán và các lĩnh vực tài chính khác).

Đặc biệt trong 2 lĩnh vực quan trọng là thuế và hải quan, Bộ Tài chính đã chỉ đạo quyết liệt việc cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Theo đó, ngành Thuế đã cắt giảm được 244/542 thủ tục hành chính – đơn giản hóa 834 thủ tục hành chính; ngành hải quan đã cắt giảm được 84/246 thủ tục hành chính – đơn giản hóa 479 thủ tục hành chính.

Nhìn chung, việc cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh được căn cứ trên các nguyên tắc chuyển đổi phương thức quản lý nhà nước bằng việc chuyển dần sang hậu kiểm; phù hợp với các cam kết quốc tế; đáp ứng các tiêu chí theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như điều kiện nguồn lực thực tế của Việt Nam.

Có thể nói, những quyết định cắt giảm mạnh mẽ, các Bộ, ngành theo hướng công khai minh bạch thông tin đã tác động mạnh mẽ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, thúc đẩy xuất nhập khẩu, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư… góp phần quan trọng hướng tới một Chính phủ kiến tạo phát triển, phục vụ.

Tạo động lực phát triển

Trong nhiều cuộc họp Chính phủ, hội nghị với doanh nghiệp gần đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đều nhấn mạnh, mục tiêu của nhiệm kỳ là hoàn thiện thể chế, trong đó có nội dung cải cách hành chính toàn diện. Trên thực tế, kết quả từ hoạt động cải cách quyết liệt đã có tác động tích cực lên nền kinh tế. Điều này minh chứng bằng những con số tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất khẩu…

Đơn cử như năm 2017, lần đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt trên 400 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng trên 20%. Báo cáo của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy, 4 tháng đầu năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 73,76 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2017; kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 70,37 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 4.2018, cả nước tiếp tục xuất siêu 700 triệu USD, nâng mức xuất siêu sau 4 tháng đạt 3,39 tỷ USD.

Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, song nhiều chuyên gia, doanh nghiệp cho rằng, việc cắt giảm, đơn giản thủ tục hành chính cần đi vào thực chất, chứ không phải gộp lại mang tính cơ học. Bởi lẽ, suy cho cùng mọi cải cách phải hướng tới mục tiêu cắt giảm chi phí, thời gian và tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Tại Hội nghị toàn quốc về logistics, các giải pháp giảm chi phí, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông được tổ chức trong tháng 4.2018, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh “Chi phí logistics cao là rào cản, gánh nặng cho doanh nghiệp và sẽ nhấn chìm “con tàu” kinh tế của Việt Nam”.

Đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, chi phí logistics của Việt Nam vào khoảng 20% – 21% GDP, đứng thứ 4 trong số các nước ASEAN. Nếu tính theo tỷ trọng GDP, chi phí logistics của Việt Nam cao gần gấp đôi so với các nền kinh tế phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu 14%.

Trên thực tế, các DN không chỉ chịu nhiều loại thuế, phí cao theo quy định mà còn “ám ảnh” về những khoản chi phí không chính thức với hàng loạt thủ tục rườm rà, phức tạp. Đơn cử như chi phí thẩm định xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản đã giảm từ 700.000 đồng/lần xuống còn 630.000 đồng/ lần. Nhưng theo tính toán của một DN chế biến cá ngừ, trong 1 năm, DN này cần tới 1.200 lần xác nhận với chi phí thẩm định là 756 triệu đồng/năm. Hay như chi phí kiểm nghiệm chất lượng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Theo quy định hiện hành, mỗi năm, một DN sản xuất mặt hàng này phải chi khoảng 300 triệu đồng cho việc kiểm nghiệm chất lượng nguyên liệu. Do thời gian kiểm tra thực tế thường kéo dài từ 2 – 3 ngày, nên ngoài phí kiểm nghiệm, DN còn phải chịu khoản chi phí lưu kho, lưu bãi rất lớn.

Các chuyên gia cho rằng, với tốc độ phát triển bình quân hàng năm của ngành logistics Việt Nam khoảng 14% – 16%, là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng đều và vững chắc của Việt Nam trong thời gian qua và con số này có thể còn cao hơn nữa nếu công tác cải cách hành chính đi vào thực chất hơn.

Dẫu rằng còn nhiều việc phải làm nhưng với những kết quả đã đạt được, đặc biệt là sự quan tâm vào cuộc của Chính phủ, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào một tương lai sáng hơn, để đưa logistics trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội đất nước.

Theo: Vietnam Logistics Review

Singapore phát triển Smart Logistics

Do tỷ lệ sử dụng internet của người dân Singapore hiện đã trên 86% nên thị trường này rất tiềm năng cho các kênh bán hàng trực tuyến và ngoại tuyến để phát triển hoạt động bán hàng đa kênh. Điều này đòi hỏi một thế hệ mới của các mạng lưới logistics cho phép một kênh tích hợp duy nhất của dòng sản phẩm.

Là một phần trong kế hoạch Smart Nation của Singapore, sáng kiến ​​Smart Logistics đã vạch ra con đường cho sự phát triển của ngành logistics tiên tiến ở Singapore. Kế hoạch này nhằm khai thác một bộ công nghệ mới và phát triển để cho phép các chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics của bên thứ ba đạt được tầm nhìn rộng hơn trong chuỗi cung ứng của họ và chia sẻ tài nguyên để tạo ra các mạng logistics hiệu quả hơn.
Cùng với việc cải thiện kết quả kinh doanh của khách hàng, công nghệ Smart Logistics có thể giảm đáng kể chi phí cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Singapore, với mức tiết kiệm hàng năm dự kiến ​​cho ngành logistics của Singapore đạt khoảng 56 triệu USD.

Sáng kiến ​​Smart Logistics tìm cách tận dụng các công nghệ mới trong kho vận hàng hóa toàn cầu để thúc đẩy các chuỗi cung ứng hiệu quả từ đầu đến cuối nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong nhiều năm tới.

Bước đầu tiên sẽ là giải quyết những hạn chế trong các mạng lưới phân phối hiện có thông qua việc sử dụng phân tích dữ liệu để tăng cường sự hợp tác giữa các công ty vận chuyển hàng hóa. Trao đổi dữ liệu mới sẽ chia sẻ thông tin về các tuyến giao hàng, loại hàng hóa và lịch giao hàng giữa các công ty, cơ quan chính phủ và nhà cung cấp dịch vụ logistics, với mục tiêu tối ưu hóa quy trình phân phối.

Ví dụ, các công ty có thể chọn sử dụng mạng trao đổi dữ liệu để điều phối lịch giao hàng của họ đến các múi giờ đã chọn và chia sẻ các phương tiện giao hàng, tài xế và kho để cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả.

Một vấn đề khác cần giải quyết là khả năng theo dõi thời gian thực để giám sát hàng hóa nhạy cảm trong quá trình vận chuyển, dẫn đến mất hàng tồn kho và sự chậm trễ thực hiện. Sáng kiến ​​Smart Logistics nhằm mục đích giải quyết vấn đề này bằng cách thiết lập các mạng cảm giác ở các sân bay và cảng biển sẽ sử dụng cảm biến nhận dạng tần số vô tuyến (RFID) để theo dõi tình trạng hàng hóa trong thời gian thực.

Điều này sẽ cung cấp cho chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics tăng cường sức mạnh theo dõi và truy tìm trên toàn bộ chuỗi cung ứng và cho phép họ theo dõi các điều kiện môi trường cho hàng hóa nhạy cảm trong quá trình vận chuyển.

Các công nghệ logistics thông minh sẽ có thể xác định các vấn đề chuỗi cung ứng và can thiệp trong thời gian thực gần để giải quyết sự chậm trễ thực hiện, ngăn chặn mất hàng tồn kho thông qua thiệt hại trong quá trình vận chuyển và loại bỏ nhu cầu giữ hàng tồn kho dư thừa trong chuỗi cung ứng. Các lô hàng được giám sát cũng được dự kiến ​​sẽ giảm chi phí bảo hiểm cho các công ty do rủi ro vận chuyển hàng hóa thấp hơn.
Loại bỏ lỗi của con người và giảm bớt sự tiêu hao nguồn nhân lực trong nhà kho là một lĩnh vực khác mà sáng kiến ​​Smart Logistics đang xem xét.
Internet of Things (IoT) cũng sẽ đóng một vai trò trung tâm như thiết bị kho kết nối internet như pallet và xe nâng hàng giảm gánh nặng cho các bộ xử lý mặt đất để theo vị trí, điều kiện và trạng thái của hàng hóa nhập và xuất
Logistics thông minh trong thực tế.

Trong khi các mạng cảm biến được trang bị RFID và trao đổi dữ liệu vẫn là các khái niệm đang được phát triển như là một phần của sáng kiến ​​Smart Logistics trên toàn quốc, các công ty quản lý chuỗi cung ứng lớn đang khai thác tiềm năng hậu cần thông minh.

Một ví dụ là Mobility Suite của CEVA Logistics – một ứng dụng điện thoại thông minh đa nền tảng đi kèm với các tính năng như các mốc thời gian thực, chữ ký điện tử, hiệu suất phân phối, tính khả dụng của trình điều khiển, trạng thái chuyến đi, khả năng hiển thị vị trí hiện tại, công văn động, bảng điều khiển di động và báo cáo, danh sách kiểm tra điện tử, biên nhận giao hàng và quản lý luồng công việc cũng như phát hiện và loại bỏ hàng hóa bị hỏng.

Nguồn: logistics.gov.vn

Chuỗi cung ứng dịch vụ

Một phần quan trọng trong nỗ lực cạnh tranh của mọi doanh nghiệp (DN) trên thị trường ngày nay là thiết kế mạng lưới cung cấp và phân phối. Lý thuyết quản trị chuỗi cung ứng đã được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực sản xuất và mang lại hiệu quả trong tối ưu hóa chi phí và chất lượng. Điều này không chỉ đúng đối với các công ty sản xuất, mà còn đúng với các công ty dịch vụ.

Đặc điểm và cấu trúc cơ bản của chuỗi cung ứng dịch vụ

Hiểu đơn giản, chuỗi cung ứng dịch vụ là một mạng lưới các nhà cung cấp, các nhà tích hợp dịch vụ, người tiêu dùng và các đơn vị hỗ trợ khác thực hiện chức năng và sử dụng các nguồn lực cần thiết để sản xuất dịch vụ; chuyển đổi các nguồn lực thành dịch vụ hỗ trợ dịch vụ cốt lõi; và cung cấp các dịch vụ này cho khách hàng.

Mỗi dịch vụ kinh doanh có thể phân chia thành một số khâu/hoạt động liên tục mà các nhà cung cấp dịch vụ có thể xử lý và thực hiện. Điều này cho phép có nhiều nhà cung cấp dịch vụ cùng tham gia vào chuỗi cung ứng để tăng tính chuyên môn hóa và hiệu quả của chuỗi.

Không xuất hiện luồng vật liệu và hoạt động dự trữ trong chuỗi cung ứng dịch vụ. Do đặc điểm cơ bản của dịch vụ là vô hình và không lưu trữ được nên các chuỗi cung ứng dịch vụ phần lớn hình thành từ sự kết nối các thông tin về nhu cầu và khả năng cung ứng. Dịch vụ sẽ được tiêu dùng ngay khi được tạo ra nên cũng không tồn tại hoạt động dự trữ.

Nguồn lực cơ bản của chuỗi cung ứng dịch vụ là kỹ năng lao động lành nghề. Năng lực chuỗi cung ứng dịch vụ thể hiện ở khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng qua chất lượng dịch vụ cung ứng. Khả năng này lại phụ thuộc chủ yếu ở kỹ năng phục vụ của nhân viên và trình độ quản lý của nhà quản trị để tạo ra chất lượng dịch vụ phù hợp. Do đó, kỹ năng lao động là nguồn lực cơ bản nhất để chuỗi cung ứng có được các dịch vụ chất lượng.

Các quyết định trong mọi chuỗi cung ứng dịch vụ có thể được phân loại theo ba cấp xét trên khía cạnh thời gian và hiệu quả. Các quyết định cấp cao nhất nằm trong lĩnh vực lập kế hoạch kinh doanh dịch vụ. Có tác động lâu dài đến chuỗi cung ứng dịch vụ như lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ, lập kế hoạch năng lực, cung cấp dịch vụ, chất lượng dịch vụ, năng suất dịch vụ. Các quyết định cấp hai là mức chiến thuật như lập kế hoạch năng lực, chi phí nhà cung cấp, định giá, dự báo. Các quyết định cấp ba là kế hoạch hoạt động, tác động của các quyết định này là ngắn hạn và bị chi phối bởi các quyết định cấp cao hơn. Ví dụ như lập kế hoạch nhân viên, dự báo ngắn hạn, phân bổ nguồn lực, phương thức nhập đơn đặt hàng dịch vụ, đường dẫn lệnh dịch vụ khách hàng, sử dụng năng suất, tỷ lệ vận hành của giờ làm việc theo kế hoạch,…

Các chuỗi cung ứng dịch vụ thường có cấu trúc mạng lưới phức tạp, kết hợp các nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp và gián tiếp xung quanh người hợp nhất dịch vụ. Trong chuỗi cung ứng dịch vụ giáo dục, các thành viên là nhà cung cấp (cung cấp dịch vụ giáo dục và nghiên cứu), nhà cung cấp dịch vụ (trường đại học) và khách hàng (sử dụng dịch vụ giáo dục và nghiên cứu). Trong chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch thì khách du lịch, nhà điều hành tour du lịch và các nhà cung cấp dịch vụ tạo thành chuỗi cung ứng hoàn chỉnh. Chuỗi cung ứng chăm sóc sức khỏe bao gồm các bệnh nhân, các trung tâm chăm sóc sức khỏe và các nhà cung cấp dịch vụ có liên quan. Trong thực tế, do tính đa dạng của dịch vụ mà có nhiều cách nhìn nhận cấu trúc chuỗi cung ứng dịch vụ khác nhau.

Căn cứ vào việc phân phối các loại hình dịch vụ khác nhau, cấu trúc của chuỗi cung ứng dịch vụ có thể được chia thành ba dạng: chuỗi cung ứng dịch vụ liên tục, chuỗi cung ứng dịch vụ song song, và chuỗi cung ứng dịch vụ kết hợp.

Một chuỗi cung ứng dịch vụ điển hình có cấu trúc cơ bản là nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, nhà tích hợp dịch vụ, người tiêu dùng cuối cùng và các thành viên trong chuỗi tham gia vào toàn bộ quá trình dịch vụ. Trong chuỗi cung ứng dịch vụ, khách hàng cũng được coi là nhà cung cấp, bên cạnh đó, do dịch vụ là vô hình, nên không có luồng vật liệu liên kết giữa các yếu tố này; trên thực tế chúng chỉ được kết nối bằng thông tin. (Xem hình 1).

Hình 1: Cấu trúc chuỗi cung ứng dịch vụ  (Baltacioglu Et Al)

Quy trình vận hành chuỗi cung ứng dịch vụ

Hoạt động quản lý chuỗi cung ứng dịch vụ tập trung vào sáu quy trình cơ bản: Quản lý luồng thông tin và kỹ thuật; Quản lý nguồn tài nguyên và năng lực; Quản lý nhu cầu; Quản lý quan hệ khách hàng; Quản lý quan hệ nhà cung cấp; Quản lý cung ứng dịch vụ và thanh toán đơn hàng. Các quy trình này được kết nối chặt chẽ trên nền tảng công nghệ thông tin của chuỗi cung ứng dịch vụ.

Khi chuỗi cung ứng dịch vụ vận hành, các thành phần trong chuỗi phải được phối hợp với nhau để đáp ứng các yêu cầu khách hàng tốt nhất. Vai trò phối hợp chuỗi cung ứng thuộc về nhà tích hợp dịch vụ, đây được xem là thành phần cốt lõi của một chuỗi cung ứng dịch vụ. Trong các chuỗi cung ứng dịch vụ, nhu cầu khách hàng thường có mức tùy chỉnh cao, mỗi yêu cầu dịch vụ riêng lẻ của họ sẽ được chuyển đến nhà tích hợp dịch vụ. Nhà tích hợp dịch vụ có trách nhiệm quản lý nhu cầu của khách hàng thông qua năng lực và quy trình quản lý nhu cầu. Nhà tích hợp sử dụng năng lực và nguồn lực của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ và cung cấp dịch vụ cho khách hàng cuối cùng.

Nếu nhà tích hợp dịch vụ không đủ khả năng phục vụ, như trong hầu hết các trường hợp, các dịch vụ sẽ được thuê ngoài, trách nhiệm của nhà tích hợp là quản lý năng lực cung ứng của các nhà cung ứng được chọn. Phương pháp và cách thức chọn nhà cung cấp dịch vụ có chuyên môn để thực hiện các khâu/ hoạt động dịch vụ theo yêu cầu cũng thuộc về năng lực quản lý của nhà tích hợp dịch vụ. (Xem hình 2)

Hình 2. Mô hình phối hợp trong chuỗi cung ứng dịch vụ

Khi các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp đưa ra các giải pháp dịch vụ, chúng cần phải được tích hợp và tùy biến theo yêu cầu của khách hàng, nhiệm vụ này cũng được thực hiện bởi nhà tích hợp dịch vụ. Gói dịch vụ tùy chỉnh sẽ được phân phối cho khách hàng cuối cùng thông qua một hệ thống phân phối dịch vụ được quản lý tốt, đây là hoạt động cốt lõi của nhà tích hợp dịch vụ. Nhà tích hợp dịch vụ phải có đủ năng lực cộng tác và điều phối các hoạt động khác nhau để cung cấp các dịch vụ cho khách hàng vào thời điểm cần thiết một cách hiệu quả, tiết kiệm chi phí và duy trì tính linh hoạt cho bất kỳ sự thay đổi nào.

Theo: Vietnam Logistics Review

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Công: Để giảm chi phí logistics, có nhiều việc cần làm & cần có thời gian…

Xoay quanh các giải pháp giảm chi phí, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông được thảo luận tại Hội nghị toàn quốc về logistics vừa qua, Tạp chí Vietnam Logistics Review đã phỏng vấn Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Công về các vấn đề đặt ra hiện nay trong lĩnh vực logistics Việt Nam (VN).

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Công

 


Hội nghị toàn quốc về logistics, các giải pháp giảm chi phí, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông nói lên hai nội dung quan hệ biện chứng giữa giảm chi phí và kết nối. Xin Thứ trưởng cho biết, thực trạng logistics VN và những hạn chế của hạ tầng giao thông, yếu kém về tính kết nối trong hoạt động giao thông hiện nay?


Thứ trưởng Nguyễn Văn Công: Theo nghiên cứu, đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Chỉ số hiệu quả dịch vụ logistics (LPI) năm 2016 của VN đứng thứ 64/160 nước; chi phí logistics của VN tương đương 20,9% tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP). Đây là con số ở mức trung bình so với các nước đang phát triển có mức GDP tương ứng, nhưng cao đối với các nước phát triển. Tỷ lệ này tại một số nước như sau: Trung Quốc khoảng 19%, Thái Lan khoảng 18%, Nhật khoảng 11%, các nước thuộc khối EU khoảng 10%.

Trong thời gian qua, hệ thống hạ tầng giao thông đã được đầu tư phát triển, kết cấu hạ tầng giao thông đã có những chuyển biến hết sức rõ nét, nhiều công trình lớn, hiện đại đã được đưa vào khai thác bước đầu đã phát huy hiệu quả. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã công bố báo cáo về Chỉ số cạnh tranh của cơ sở hạ tầng giao thông giai đoạn 2015 – 2016 thực hiện tại 140 nước cho thấy: Chỉ số cạnh tranh của cơ sở hạ tầng giao thông VN giai đoạn 2015 – 2016 tăng 9 bậc, đứng ở vị trí 67 so với vị trí thứ 76 giai đoạn 2014 – 2015 và tăng 29 bậc so với vị trí 96 giai đoạn 2010 – 2011. Nhìn chung, sự phát triển của kết cấu hạ tầng giao thông trong thời gian gần đây đã bước đầu đáp ứng yêu cầu vận tải để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước, tiến dần đến hội nhập kinh tế quốc tế.

Phải thẳng thắn nhìn nhận hệ thống hạ tầng giao thông của chúng ta còn chưa đồng bộ, tính kết nối còn hạn chế, đặc biệt là kết nối các trung tâm sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, các vùng nguyên liệu, vật liệu với cảng biển, cảng hàng không, cảng đường thủy nội địa thông qua hệ thống đường bộ và đường sắt. Cơ sở hạ tầng hệ thống dịch vụ hỗ trợ vận tải còn thiếu, manh mún, thiếu tính kết nối đặc biệt là việc thiếu những cảng cạn, trung tâm logistics có quy mô và vị trí thuận tiện tại mỗi khu vực kinh tế trọng điểm để làm đầu mối trung chuyển phân phối hàng hóa đã ảnh hưởng đến việc tối ưu hóa hoạt động vận tải, đặc biệt là vận tải đa phương thức, đây là rào cản lớn, điểm nghẽn đối với hoạt động vận tải làm tăng giá thành vận chuyển, giảm tính cạnh tranh về giá sản phẩm.

Hiện nay, hạ tầng vận tải đường bộ mặc dù đã được đầu tư nhưng còn chậm và chưa theo kịp tốc độ phát triển lưu lượng vận tải; kết nối với các hạ tầng giao thông khác chưa tốt.

 Để giảm chi phí trong vận tải, chúng ta cần có nguồn lực lớn đầu tư hệ thống giao thông kết nối đồng bộ… và cần có thời gian. Trong đó, cải cách thể chế chính sách (cắt giảm điều kiện kinh doanh, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành…), nâng cao chất lượng thực thi công vụ chúng ta có thể làm được ngay. 

Hạn chế lớn của hạ tầng đường sắt là công nghệ lạc hậu, thiếu an toàn do sử dụng khổ đường sắt hẹp. Hạ tầng không đồng bộ và không kết nối với hệ thống cảng biển nên việc sử dụng đường sắt để vận chuyển hàng hóa rất khó khăn.

Hệ thống cảng biển VN được đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp với quy hoạch đáp ứng yêu cầu xếp dỡ hàng hóa XNK cũng như lưu thông trong nước. Tuy nhiên, các khu bến cảng hiện đại đạt chuẩn mực quốc tế rất ít. Chúng ta đã có cảng cửa ngõ quốc tế hiện đại (khu Cái Mép – Thị Vải) đón được các tàu container siêu lớn chuyên chở hàng hóa XNK đi châu Âu, bờ Đông và Tây nước Mỹ nhưng do hạ tầng giao thông kết nối còn thiếu, luồng hàng hải một chiều và chưa đạt yêu cầu dẫn đến số tuyến vận tải hàng hải biển xa cũng như số lượng tàu cập cảng ít, chưa đáp ứng được toàn bộ hàng hóa XNK biển xa.

Mạng đường thủy nội địa được đầu tư rất ít, chủ yếu tận dụng điều kiện tự nhiên, vì thế hạ tầng đường thủy nội địa (cầu, bến cảng, luồng lạch) cũng như phương tiện vận tải và thiết bị xếp dỡ còn lạc hậu, chủ yếu vận tải hàng dời, ít container vì thế đã hạn chế vận tải đa phương thức.


Kế hoạch của Bộ GTVT trong thời gian tới nhằm giảm chi phí logistics trong GTVT nói riêng và chi phí logistics nói chung như thế nào, thưa Thứ trưởng?


Thứ trưởng Nguyễn Văn Công: Bộ GTVT sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả nội dung Quyết định số 169/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ logistics trong lĩnh vực GTVT VN đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, đặc biệt là những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc về logistics ngày 16.4. Trong đó, chú trọng một số vấn đề sau:

+ Tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật, cắt giảm các điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành tạo môi trường pháp lý minh bạch, cạnh tranh lành mạnh thu hút các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh có hiệu quả dịch vụ logistics.

+ Rà soát các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành và tổ chức đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông hợp lý, phù hợp với các chiến lược, quy hoạch sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, XNK, quy hoạch vùng nguyên vật liệu của từng vùng, từng địa phương và của cả nước trên tổng thể.

+ Tập trung nghiên cứu, xây dựng ngay một số hành lang vận tải trọng điểm kết nối các trung tâm sản xuất, tiêu thụ lớn với cảng biển, xác định các loại hàng hóa chủ yếu (theo tiêu chí khối lượng và/hoặc giá trị cao), nghiên cứu các phương thức vận tải tối ưu và tập trung nguồn lực đầu tư hoặc nâng cấp loại hình kết cấu hạ tầng giao thông phù hợp với phương thức vận tải nhằm đạt được mục đích tối thượng: chuỗi cung ứng cho chủ hàng theo hướng là chuỗi cung ứng đa phương tiện và sự liên quan giữa các phương tiện vận tải phải hoàn thiện đến mức tối ưu để đảm bảo hiệu quả, giảm chi phí cho chuỗi cung ứng.

+ Ưu tiên đầu tư xây dựng bằng nguồn ngân sách nhà nước và xã hội hóa kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa (cảng, bến thủy nội địa, luồng lạch) tại một số khu vực trọng điểm, hiện đại hóa phương tiện đường thủy nội địa, thiết bị xếp dỡ, đầu tư mới hoặc cải tạo nâng cấp một số cầu đường bộ, đường sắt để nâng cao tĩnh không và khổ rộng thông thuyền với mục tiêu khai thác tối đa lợi thế của vận tải thủy nội địa là đầu tư ít, chi phí vận tải thấp, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng xanh, bền vững, bảo vệ môi trường.

Logistics là quá trình tối ưu hóa mọi công việc hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối hàng hóa và tiêu dùng vì vậy nó liên quan và chịu tác động của nhiều Bộ, ngành, các địa phương và các tổ chức, cá nhân.

+ Đầu tư nâng cấp tuyến luồng hàng hải vào khu bến Cái Mép – Thị Vải đáp ứng cho các tàu container có trọng tải siêu lớn có thể ra vào làm hàng 24/24 giờ nhằm thu hút các hãng, liên minh hãng tàu mở nhiều tuyến vận chuyển hàng hải với tần suất tàu đi đến Cái Mép – Thị Vải nhiều hơn để hàng hóa XNK của VN không phải trung chuyển qua nước khác, từng bước biến Cái Mép – Thị Vải trở thành cảng trung chuyển quốc tế của khu vực.

+ Chủ trì, phối hợp với các địa phương triển khai ngay Quy hoạch chi tiết phát triển hệ thống cảng cạn VN đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Hướng dẫn, kêu gọi và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân đầu tư xây dựng hệ thống cảng cạn theo quy hoạch. Phát triển cảng cạn nhằm tổ chức vận chuyển container một cách hợp lý, tăng hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics trên các hành lang vận tải, góp phần giảm ùn tắc giao thông tại cảng biển, cửa khẩu quốc tế và các đô thị lớn.

+ Nghiên cứu, xây dựng cơ chế giá dịch vụ container hợp lý để DN cảng hoạt động minh bạch, tránh cạnh tranh không lành mạnh giúp DN nâng cao hiệu quả kinh doanh, có lợi nhuận để tái đầu tư hiện đại hóa thiết bị xếp dỡ, hệ thống kho bãi, công nghệ thông tin hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.

+ Tiếp tục nghiên cứu, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng mô hình quản lý, đầu tư xây dựng, khai thác tiên tiến tại các cảng cửa ngõ quốc tế với khu hậu cần sau cảng đủ rộng để phát triển các khu công nghiệp, thương mại tiếp nhận nguyên liệu, vật tư, sản xuất, xuất khẩu hàng hóa trực tiếp tại cảng nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí vận tải.


Thưa Thứ trưởng, để giảm chi phí logistics, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa VN, chỉ riêng ngành GTVT không giải quyết được. Thứ trưởng nghĩ về vấn đề này như thế nào?


Thứ trưởng Nguyễn Văn Công: Đúng vậy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ mà là một chuỗi hệ thống dịch vụ. Logistics là quá trình tối ưu hóa mọi công việc hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối hàng hóa và tiêu dùng vì vậy nó liên quan và chịu tác động của nhiều Bộ, ngành, các địa phương và các tổ chức, cá nhân.

Tại VN cũng như nhiều nước khác trên thế giới, chi phí vận tải luôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi phí logistics. Tỷ lệ này ở VN là khoảng 59% – 60%, tại Mỹ là 63,6%, tại Thái Lan khoảng 53,5%, tại Trung Quốc là 53,3%. Do đó việc giảm chi phí vận tải đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí logistics.

Tuy nhiên, để giảm chi phí trong vận tải, chúng ta cần có nguồn lực lớn đầu tư hệ thống giao thông kết nối đồng bộ… và cần có thời gian. Trong đó, cải cách thể chế chính sách (cắt giảm điều kiện kinh doanh, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành…), nâng cao chất lượng thực thi công vụ chúng ta có thể làm được ngay.

Vì vậy, để giảm chi phí logistics, Bộ GTVT một mặt sẽ tích cực, quyết liệt triển khai các giải pháp đã ở nêu trên, mặt khác Bộ cũng sẽ chủ động phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan và các địa phương trong việc cải cách thể chế chính sách, thực thi có hiệu quả các quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là:

+ Đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thực thi triệt để hải quan điện tử cũng như cơ chế hải quan một cửa.

+ Khuyến khích và xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa các liên kết giữa các DN logistics VN với nhau và giữa DN logistics VN với các DN XNK, khu công nghiệp và nhà sản xuất.

+ Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tập trung vào giáo dục bậc đại học và đào tạo nghề cho ngành logistics. Nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt về quản lý chuỗi giá trị, có thể giúp mở mang tầm nhìn của các nhà quản lý DN để nhận ra các cơ hội và góp phần chuyên nghiệp hóa dịch vụ logistics, từ đó giúp DN logistics nắm bắt được thời cơ kinh doanh.

+ Nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ của DN logistics.

+ Phát triển thị trường logistics minh bạch, hiệu quả.

Theo: Vietnam Logistics Review

Phát triển logistics giải bài toán kết nối hạ tầng

Chính sách chưa đồng bộ, hạ tầng thiếu và yếu, chi phí cao, giá thành tăng, giảm năng lực cạnh tranh… đang là “khoảng trống” của ngành logistics Việt Nam. Một trong những giải pháp cấp bách là đồng bộ chính sách và tăng cường kết nối hạ tầng.

Bất cập từ ngành logistics Hà Nội   

Hà Nội có vị trí trung tâm đầu mối của mọi tuyến đường huyết mạch ở phía Bắc, đồng thời là cánh cửa nối với thế giới bên ngoài một cách toàn diện. Với những điều kiện thuận lợi đó, cùng sự ưu tiên đầu tư cho thủ đô, Hà Nội có thể phát triển kinh tế – xã hội một cách vượt bậc, trong đó có ngành logistics. Tuy nhiên, thực tế lại không như vậy.

Theo kết quả khảo sát của Sở Công Thương Hà Nội đối với nhiều doanh nghiệp (DN) đánh giá về chất lượng cơ sở hạ tầng vận tải của Hà Nội (kho, bãi, cảng, sân bay…), năm 2017 với thang điểm từ 1-5 thì các DN chỉ đạt 2,965 điểm.  Cũng theo báo cáo này, số lượng DN đang hoạt động trong lĩnh vực logistics trên địa bàn là 5.445 DN, trong đó, DN tư nhân chiếm khoảng 80%. Đa phần các DN này là các DN nhỏ, số lượng các DN có khả năng cung cấp đầy đủ và trọn gói các loại hình dịch vụ logistics là rất ít.

Đặc biệt, dù có điều kiện hạ tầng tốt hơn nhiều địa phương khác nhưng chi phí logistics vẫn còn khá cao, nhất là chi phí vận tải. Chiếm từ 40% – 60% chi phí logistics, phí vận tải quá cao hiện nay là nút thắt lớn ảnh hưởng đến giá thành hàng hóa, chi phí chuỗi giá trị hàng hóa và năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho biết, Yên Lạc (Vĩnh Phúc) là vùng sản xuất rau an toàn, với khoảng cách địa lý 38km, bình quân 1kg rau sạch từ Yên Lạc về đến khu vực Cầu Giấy (Hà Nội) mất chi phí 2.500 đồng/kg nhưng nếu vận chuyển sang Gia Lâm thì chi phí vận chuyển sẽ đội thêm khoảng 1.200 đồng/kg.

Cần có cơ chế khuyến khích đầu tư vào hạ tầng, đặc biệt chú trọng huy động nguồn vốn xã hội hóa để đẩy mạnh đầu tư các công trình cảng, sân bay, đường sắt, đường thủy, đường bộ, các cảng thông quan nội địa, kho bãi,… theo hướng công khai minh bạch.

Sở dĩ còn tồn tại nêu trên, các chuyên gia chỉ ra rằng, hầu như toàn bộ năng lực vận chuyển bằng đường sông và đường sắt của Hà Nội không tham gia vào giá trị bài toán logistics mà phần lớn là vận chuyển bằng đường bộ. Trong khi đó, ùn tắc giao thông, khổ đường hẹp, giới hạn tải trọng phương tiện… là một trong những cản trở lớn đối với phát triển logistics và làm gia tăng các chi phí của DN để vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm, hàng hóa đến nơi tiêu thụ.

Theo ông Hoàng Trọng Thủy, toàn bộ hệ thống giao thông của Hà Nội mới chỉ là hệ thống giao thông hướng tâm, chứ chưa phát triển hệ thống giao thông bàn cờ, khiến việc vận chuyển gặp nhiều khó khăn.

Hay một vấn đề hạ tầng khác là kho bãi tập kết hàng hóa. Hầu hết các kho bãi đều có quy mô hạn chế, thiếu trang thiết bị, chưa áp dụng công nghệ thông tin để quản lý, chưa có sự liên kết với nhau. Ngay cả đến các cảng cạn ICD cũng chỉ dùng một loại hình vận tải là đường bộ, chưa có kết nối với đường sắt, đường sông.

Có thể khẳng định rằng, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Hà Nội chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của hoạt động logistics dẫn đến sự phát triển của hệ thống phân phối, lưu thông hàng hóa bị cản trở, chi phí logistics bị đẩy  lên cao.

Cần chính sách  đồng bộ và tăng cường liên kết

Tình trạng nêu trên của Hà Nội cũng là tình trạng chung của nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Mặc dù logistics là ngành dịch vụ quan trọng trong hoạt động thương mại, góp phần tích cực làm tăng tính cạnh tranh hàng hóa của quốc gia, phát triển kinh tế… Tuy nhiên hệ thống cơ chế, chính sách, hạ tầng vẫn chưa được quan tâm đúng mức khiến nó manh mún và thiếu định hướng. Thêm vào đó là thiếu sự kết nối giữa các khu vực, vùng miền và địa phương.

Đại diện Tổng Công ty thương mại Hà Nội (Hapro) cho rằng, các tỉnh, thành có cảng biển thì hạ tầng đều chưa đáp ứng được nhu cầu, kho lưu giữ thường xuyên quá tải, dẫn đến quá trình vận chuyển hàng hóa còn chậm. Chi phí hạ tầng còn cao. Trong khi đó, các DN logistics hầu hết là công ty nhỏ, vốn đầu tư ít không đủ để đầu tư kho hàng, xe đầu kéo container để hoạt động… Chính những nhân tố này đang làm cản trở sự phát triển của ngành dịch vụ logistics của từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung.

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho hay, hàng hóa về đến cảng Hải Phòng, tỷ lệ hàng chở bằng đường sắt và đường thủy là rất thấp mà chủ yếu chở bằng đường ô tô. Chi phí vận chuyển, chi phí BOT, bốc xếp, kho bãi, cảng và các loại phí khác là rất lớn, điều này làm tăng chi phí của các DN, tăng giá thành sản phẩm và làm giảm năng lực cạnh tranh của DN.

Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam còn cao, tương đương khoảng 21% GDP, trong khi của các nước phát triển trung bình chỉ khoảng 10% – 14%. Đặc biệt, phí vận tải cao chiếm từ 40% – 60% chi phí logistics đang là nút thắt, ảnh hưởng đến giá thành, chi phí chuỗi giá trị, cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Điều này còn là yếu tố cản trở phát triển của cả nền kinh tế.

Các chuyên gia cho rằng, để đẩy mạnh phát triển logistics nói chung và từng địa phương nói riêng, cần có một cơ chế chính sách, đồng bộ, thống nhất. Trước hết cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong các văn bản hoặc ban hành mới nhằm tạo hành lang pháp lý cho các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp có căn cứ thực hiện nhưng phải đơn giản hóa thủ tục hành chính; hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, trong đó đưa ra cơ chế khuyến khích đầu tư vào hạ tầng, đặc biệt chú trọng huy động nguồn vốn xã hội hóa để đẩy mạnh đầu tư các công trình cảng, sân bay, đường sắt, đường thủy, đường bộ, các cảng thông quan nội địa, kho bãi,… nhưng theo hướng công khai minh bạch, có sự giám sát và có sự cạnh tranh bình đẳng, tránh lợi  ích nhóm.

Bên cạnh đó, cần tăng cường kết nối giữa các địa phương, khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của các loại hình vận tải với nhau nhằm giảm các chi phí cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt.

Theo: Vietnam Logistics Review