Thực trạng & giải pháp phát triển ngành logistics TP. HCM

TP.HCM có hệ thống logistics phát triển và có tầm quan trọng nhất trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước. trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, tp.hcm cần nhanh chóng xây dựng chương trình phát triển logistics trở thành ngành kinh tế chủ lực.

Thực trạng cơ sở hạ tầng ngành logistics TP. HCM

Vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ trên địa bàn TP.HCM phát triển với tốc độ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng khối lượng vận tải hàng hóa. Trong khi đó vận tải đường biển, đường sông khá ổn định. Riêng vận tải đường hàng không chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các quốc gia trên thế giới (chủ yếu bằng đường biển) có sự tăng trưởng chậm hơn so với hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các địa phương khác (đường bộ, đường sông).

Theo Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), khu vực cảng TP.HCM đứng đầu cả nước về sản lượng container thông qua, chiếm 58,81% thị phần. Trong đó, riêng Tân Cảng Cát Lái (quận 2) chiếm đến 48% thị phần cả nước và chiếm 80,89% thị phần khu vực cảng TP.HCM. Có được vị thế đó là nhờ Cát Lái nằm gần trung tâm TP.HCM, gần các khu công nghiệp, kho hàng của các DN Đồng Nai, Bình Dương; có đầy đủ các dịch vụ hậu cần gồm: kho bãi, giao nhận, vận chuyển và đặc biệt tại đây quy tụ rất nhiều hãng tàu quốc tế.

Theo Cục Hàng không Việt Nam, sân bay Tân Sơn Nhất được thiết kế với năng lực tiếp đón 23 triệu hành khách vào năm 2020. Tuy nhiên, năm 2014, sân bay Tân Sơn Nhất đã đạt 22.140.348 lượt hành khách và 408.006 tấn hàng hóa. Đến năm 2015, Tân Sơn Nhất đã đón trên 25 triệu hành khách, vượt tải thiết kế. Mặc dù sẽ được mở rộng diện tích đất về phía Bắc hơn 8 ha nhưng sân bay Tân Sơn Nhất chỉ có thể nâng công suất thiết kế đến 25 triệu hành khách/năm.

Hiện tại, TP.HCM chưa có đường sắt nối vào các cảng biển, hiện chỉ có một tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua các tỉnh và kết thúc tại ga Sài Gòn. Theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt, TP.HCM sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị (metro). Đặc biệt, với 3 tuyến đường sắt đô thị đang được triển khai, cơ bản mạng lưới đường sắt đô thị đã kết nối đến hầu hết các khu vực có tốc độ đô thị hóa cao của TP.HCM.

Thực trạng  các trung tâm logistics

Sau khi thực hiện kế hoạch giải tỏa, di dời các cảng Sài Gòn, Tân Cảng và ICD Trường Thọ – Thủ Đức, Thành phố còn 2 cảng biển lớn là Hiệp Phước và Cát Lái. Cảng Tân Cảng – Cát Lái hiện là cảng container quốc tế lớn và hiện đại nhất VN, nằm gần các khu công nghiệp, khu chế xuất phía Bắc TP.HCM và khu công nghiệp các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai. Cảng có diện tích 130 ha, 1.424m cầu tàu (8 bến), được trang bị hệ thống quản lý, khai thác container hiện đại cho phép tối ưu hóa năng lực khai thác cảng, giảm thời gian giao nhận hàng,… Để phát triển thành Trung tâm logistics loại 1 của khu vực phía Nam, Công ty TNHH MTV Phát triển khu công nghiệp Sài Gòn đã có dự án xây dựng trung tâm logistics khoảng 66 ha tại cảng Cát Lái và nối kết theo đó là khu vực khoảng 40ha thuộc khu công nghiệp Cát Lái (giai đoạn 2). Đây là nội dung thuộc Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Thành phố giai đoạn 2008 – 2010 và đã được UBND TP.HCM chấp thuận chủ trương quy hoạch khu vực logistics tại Cát Lái (theo văn bản số 4278/VP-TM ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố).

Cảng Tân Cảng – Hiệp Phước hiện có diện tích 18,7ha, cầu tàu 420m, bãi chứa hàng 17ha, có khả năng thông qua 9 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Với vị trí chiến lược nằm ở giao điểm giữa vùng phía Nam của TP.HCM và Biển Đông, kết nối với các tuyến đường vành đai và hàng loạt khu công nghiệp, cảng Tân Cảng – Hiệp Phước là nơi tập trung xuất nhập khẩu hàng hóa của các khu công nghiệp phía Nam Thành phố và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn đang triển khai đầu tư thêm 5.000m cầu tàu, 300ha bãi chứa hàng, xây dựng cảng container và cảng tổng hợp tại khu công nghiệp Hiệp Phước.

Ngoài hai khu vực trên, khu Công nghệ cao (quận 9) cũng vừa hoàn thành xây dựng kho ngoại quan và trung tâm logistics với tổng diện tích hơn 10ha nhằm đáp ứng nhu cầu phân phối nội địa và xuất khẩu cho các DN trong khu Công nghệ cao và DN các tỉnh lân cận. Trung tâm logistics tại khu Công nghệ cao bao gồm hệ thống kho ngoại quan, kho bảo thuế, kho CFS (container – freight station), kho thường, kho lạnh và bãi chứa container với chức năng hoạt động như điểm thông quan nội địa ICD. Với vị trí nằm gần đường vành đai 2, khu vực giáp ranh với các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, trung tâm sẽ tập trung phát triển dịch vụ logistics tích hợp trọn gói và đồng bộ các phương thức vận chuyển đường bộ, đường thủy và đường hàng không.

Thực trạng cung cấp  và sử dụng dịch vụ logistics

Cả nước hiện nay có khoảng 3000 công ty tham gia cung cấp các loại hình dịch vụ logistics, trong số đó 70% có trụ sở ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và có khoảng 30 công ty logistics đa quốc gia. DN nước ngoài chiếm phần lớn thị phần vận tải viễn dương tại VN, gồm vận chuyển hàng hóa xuất khẩu từ cảng của VN ra nước ngoài. Nhìn chung, DN logistics trong nước có thế mạnh về hoạt động nội địa, cung cấp các dịch vụ logistics giản đơn 2PL: làm giao nhận, vận tải, lưu kho, đại lý thủ tục hải quan,… Phần lớn DN trong nước đóng vai trò như những nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các công ty logistics nước ngoài. Thiếu vốn và nhân lực là 2 yếu tố cơ bản làm cho các DN logistics trong nước kém sức cạnh tranh so với DN logistics nước ngoài. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng còn nhiều hạn chế, phần lớn website DN logistics trong nước thiếu các tiện ích mà khách hàng cần như: công cụ theo dõi đơn hàng, theo dõi chứng từ, xem lịch tàu, e-booking,… Hiện nay, các DN trong nước đang phấn đấu nâng cấp độ cung cấp dịch vụ logistics lên 3PL; phát triển logistics điện tử (e-logistics) và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả. Một số DN trong nước cũng đã tham gia vào mô hình chiến lược 3PL đặc thù như Vinafco, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, Transimex, ITL, Gemadept, Vinalink,…

Ở góc độ sử dụng dịch vụ logistics, phần lớn DN trong nước chưa đánh giá đúng tầm quan trọng và hiệu quả của việc sử dụng dịch vụ logistics, họ thường đồng nhất logistics với dịch vụ vận tải hoặc cho thuê kho bãi và cũng chưa quen sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài. Điều đó dẫn đến chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa tăng cao, giảm sức cạnh tranh đối với hàng nước ngoài.

Một số giải pháp phát triển logistics TP.HCM

Sớm hình thành và phát triển nhanh thị trường dịch vụ logistics trọn gói 3PL dựa trên nền tảng: Hạ tầng bến cảng, kho bãi, giao thông được kết nối tối ưu; Môi trường pháp lý, công tác quản lý nhà nước (về logistics) minh bạch, hiệu quả; Cộng đồng DN logistics chuyên nghiệp, có nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng công nghệ hiện đại, đủ sức cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 3PL với giá thành cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của các DN xuất nhập khẩu, phân phối (bán buôn, bán lẻ).

Hình thành mạng lưới trung tâm logistics (trung tâm phân phối hàng hóa) để trung chuyển, cung cấp hàng hóa cho các chuỗi phân phối trong nội thành (siêu thị, cửa hàng bán lẻ,…). Phát triển các trung tâm logistics phục vụ trung chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các tỉnh/thành, hàng hóa xuất – nhập khẩu thông qua địa bàn TP.HCM.

Định hướng phát triển e-logistics, có chính sách hỗ trợ DN ứng dụng kỹ thuật hiện đại trong quản trị logistics; xác định các điều kiện hỗ trợ phát triển nhà cung cấp dịch vụ logistics với hiệu suất và hiệu quả hoạt động cao.

Hình thành mạng lưới trung tâm phân phối hàng hóa để làm nơi tập trung, lưu trữ, cung cấp hàng hóa cho các chuỗi phân phối hoạt động trong nội thành (siêu thị, cửa hàng bán lẻ,…). Những trung tâm này được đặt tại các khu vực đầu mối giao thông như sân bay, bến cảng, ga đường sắt hoặc trên các tuyến đường lớn ở khu vực vùng ven, ngoại thành,… phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, các quy hoạch ngành liên quan và có đủ quỹ đất để  thực hiện.

TP.HCM có hệ thống logistics phát triển nhất và có tầm quan trọng nhất trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Trong khi đó, quá trình mở cửa, hội nhập đã thực sự diễn ra rất sâu rộng. Do đó, TP.HCM cần nhanh chóng xây dựng chương trình phát triển logistics, phát triển ngành này như một ngành hạ tầng kinh tế và như một ngành dịch vụ chủ lực.

Theo: Vietnam Logistics Review

FTA và nguồn cung hàng hóa tại Việt Nam

Tính tới tháng 12.2017, Việt Nam (VN) đã ký kết, thực thi và đang đàm phán 16 FTA. Các FTA thế hệ mới luôn đặt ra áp lực về lộ trình cắt giảm thuế đới với hàng hóa và mở cửa tự do các lĩnh vực, đặc biệt là ngành bán lẻ, gây nguy cơ lớn cho các doanh nghiệp (DN) nội địa phải chia sẻ thị phần với nguồn hàng ngoại nhập có mức giá bán rất cạnh tranh.

Tỷ trọng giữa hàng nội địa với hàng nhập khẩu

Theo số liệu của Cục Thống kê TP. HCM, năm 2016, trong số 7 nguồn cung phổ biến với ngành bán lẻ, nguồn hàng mua trực tiếp từ nhà sản xuất nội địa chiếm vị trí lớn nhất, trung bình chiếm tới 46% tổng nguồn hàng của các DN. Nguồn hàng từ chính DN vừa là nhà sản xuất đồng thời có các cơ sở bán lẻ sản phẩm do họ sản xuất lại khiêm tốn hơn, khoảng 12%. Trung bình có khoảng 4% nguồn hàng được mua từ các nhà sản xuất nhưng thông qua các kênh trung gian. Số nhà bán lẻ bán hàng mang thương hiệu riêng của mình rất ít, chỉ chiếm chưa đầy 1% tổng nguồn hàng, họ là những nhà bán lẻ đặt hàng các đơn vị sản xuất để gia công hàng hóa mang thương hiệu của mình. Nhìn chung, trừ các nguồn khác không xác định (khoảng 5%), nguồn hàng nội địa hiện chiếm khoảng 60% tổng nguồn hàng của các DN. Số DN bán hàng hóa mang thương hiệu riêng của mình (thuê các đơn vị sản xuất gia công) chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chưa đầy 1%.

Về hàng NK, tỷ trọng hàng hóa DN NK trực tiếp từ nước ngoài chiếm 19% tổng nguồn hàng, số NK gián tiếp thông qua các khâu trung gian chiếm 13% nguồn hàng. Tổng cộng hàng NK chiếm khoảng 31% nguồn hàng. Có thể thấy hàng nội địa vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn hàng của DN bán lẻ, cao gấp đôi so với nguồn hàng NK. Trên thực tế, các lo ngại về việc hàng NK sẽ chiếm lĩnh hoàn toàn nguồn hàng của các cơ sở bán lẻ, thậm chí đánh bật hàng nội địa ra khỏi chính thị trường của các cơ sở bán lẻ trong tương lai không thật sự có căn cứ.

Hàng nội địa vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn hàng của DN bán lẻ, cao gấp đôi so với nguồn hàng NK.

Từ góc độ chủ thể kinh doanh, việc các nhà bán lẻ nước ngoài có xu hướng tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa NK từ nước mình là một thực tế. Càng nhiều nhà bán lẻ nước ngoài gia nhập thị trường thì khả năng này càng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do việc NK hàng hóa từ nguồn quen thuộc sẽ thuận tiện hơn, do đó có thể mang lại lợi nhuận tốt hơn.

Quan trọng nhất trong ngành bán lẻ là việc bắt kịp và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Nếu người tiêu dùng muốn sử dụng hàng NK và việc bán hàng NK mang lại lợi nhuận tốt hơn thì DN bán lẻ VN cũng chắc chắn sẽ lựa chọn tăng nguồn hàng NK trong tổng nguồn hàng của mình.

Song cần chú ý rằng, các nhà bán lẻ nước ngoài hiện nay chỉ đang cạnh tranh thị phần với bán lẻ nội địa ở các mô hình bán lẻ hiện đại như trung tâm mua sắm, siêu thị, cửa hàng tiện lợi, và phần lớn là bán lẻ tổng hợp. Theo thống kê, những mô hình bán lẻ hiện đại này chỉ chiếm khoảng 25%30% thị phần bán lẻ VN, 70%-75% thị phần vẫn thuộc về các mô hình bán lẻ truyền thống như cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tạp hóa mà hiện vẫn chủ yếu thuộc sở hữu của các nhà bán lẻ nội địa. Nguồn hàng của nhóm chủ thể này vẫn tiếp tục là hàng VN với các lợi thế nhất định như chi phí logistics thấp hơn do không phải di chuyển quá xa, tiết kiệm được các thủ tục NK, ưu thế thực phẩm tươi sống, chất lượng trong một số trường hợp là tốt hơn so với hàng hóa NK.

Vì vậy, khả năng hàng NK theo chân các nhà bán lẻ nước ngoài chi phối hay thống lĩnh toàn bộ thị trường bán lẻ VN trong thời gian tới rất ít có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, nếu hàng VN không được cải thiện về chất lượng, không tận dụng được các lợi thế về khoảng cách, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, không thu hút được người tiêu dùng VN thì bị hàng NK chiếm mất thị phần là có, nhưng đó là do người tiêu dùng quyết định, hoàn toàn không phải vì số lượng các nhà bán lẻ nước ngoài trên thị trường cũng như hành động của họ.

Các lo ngại về việc hàng NK sẽ chiếm lĩnh hoàn toàn nguồn hàng của các cơ sở bán lẻ, thậm chí đánh bật hàng nội địa ra khỏi chính thị trường của các cơ sở bán lẻ trong tương lai không thật sự có căn cứ.

Tác động từ các FTA thế hệ mới

Nhìn chung nguồn cung hàng hóa của các DN bán lẻ VN nói chung sẽ thay đổi chưa đáng kể vì các lý do chủ yếu như sau:

Một là, lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết của VN trong các FTA thể hiện rõ mục tiêu duy trì mức độ bảo hộ đáng kể đối với các mặt hàng mà nền sản xuất trong nước có sức cạnh tranh chưa cao so với nền sản xuất của các quốc gia thành viên khác. Các mặt hàng như rượu bia, thịt gà, thịt lợn, ngô, thực phẩm chế biến từ thịt, thực phẩm chế biến từ thủy sản, đường, trứng, muối và thuốc lá điếu đều có lộ trình cắt giảm thuế kéo dài từ thấp nhất là 5 năm đến cao nhất là 11 năm kể từ khi FTA có hiệu lực. Khi rào cản về thuế quan NK vẫn còn hiện diện đáng kể thì hàng hóa từ các nước thành viên của FTA vẫn chưa thể tiếp cận thị trường VN với số lượng lớn và chủng loại đa dạng.

Hai là, các DN bán lẻ tại VN trong thời gian qua đã xây dựng được mạng lưới nguồn cung hàng hóa khá chặt chẽ. Các DN cũng đã thực hiện tích cực cuộc vận động “Người VN dùng hàng VN” và có các chiến lược liên kết, tạo nguồn cung ứng đối với các DN trong nước tương đối ổn định. Do đó, hàng VN đã trở thành nguồn hàng chủ yếu tại các siêu thị nhất là những mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng. Theo đánh giá của Sở Công Thương TP.HCM, hàng hóa VN chiếm từ 80% – 90% số lượng hàng hóa được bày bán tại các siêu thị trên đại bàn  thành phố.

Không chỉ các DN bán lẻ VN, các siêu thị của nước ngoài cũng thực hiện chính sách gắn kết với nhà sản xuất trong nước để cung ứng nguồn hàng hóa đa dạng, phù hợp với xu hướng và thị hiếu tiêu dùng của người VN. Với hệ thống nguồn cung ổn định và hệ thống logistics đã được thiết lập trong thời gian dài, nếu mức thuế đối với hàng hóa NK được cắt giảm chưa đáng kể trong những năm đầu Hiệp định có hiệu lực thì động lực để các DN bán lẻ thay đổi cơ cấu nguồn cung là chưa thật sự rõ ràng.

Ba là, các DN bán lẻ cũng là nhà sản xuất đối với nhiều sản phẩm hoặc đang có chiến lược liên kết với các nhà sản xuất trong nước để sản xuất nhãn hàng riêng. Hàng nhãn riêng là xu hướng phát triển tất yếu của các DN bán lẻ trên thế giới để tận dụng được tối đa lợi thế của khâu bán lẻ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Kết quả khảo sát thị trường của AC Nielsen cho thấy, người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển sang mua hàng nhãn riêng nhiều hơn để tiết kiệm chi phí vì hàng nhãn riêng của siêu thị có giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nhà sản xuất riêng biệt. Vì vậy, các DN bán lẻ tại VN đã đầu tư phát triển hệ thống hàng nhãn riêng khá đa dạng phong phú và các DN trong nước cũng đã hợp tác tích cực trong chiến lược phát triển này.

Bốn là, sự khác biệt về cơ cấu hàng hóa là một trong những lợi thế cạnh tranh. Sự thâm nhập thị trường của các DN bán lẻ nước ngoài cùng với sự hiện diện của các DN nước ngoài hiện đã có hệ thống bán lẻ VN sẽ làm gia tăng số lượng và chủng loại hàng hóa NK trên thị trường bán lẻ. Tuy nhiên, nếu giá cả hàng NK chưa thật sự thấp đáng kể do tác động của lộ trình cắt giảm thuế quan còn dài thì cơ cấu hàng hóa hiện tại của các DN bán lẻ VN là sự khác biệt để tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ nước ngoài. Các đối thủ nước ngoài có thể NK hàng hóa từ nước họ với chi phí rẻ hơn, cơ cấu hàng hóa phong phú hơn vì họ am hiểu nguồn hàng, tập quán kinh doanh và có mối quan hệ tốt hơn với các nhà cung ứng nước ngoài. Trong khi đó, các DN bán lẻ VN lại có lợi thế là am hiểu thị trường nội địa, có hệ thống cung ứng và mối quan hệ vững chắc với các DN trong nước nên có được hàng hóa phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trong nước với chi phí  hợp lý.

Theo: Vietnam Logistics Review

Công nghiệp 4.0 trong logistics & quản trị chuỗi cung ứng

Hiện nay, con người đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thường được gọi là cách mạng công nghiệp 4.0. Vậy cuộc cách mạng này là gì và cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi ra sao đối với đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân loại, trong đó có logistics và quản trị chuỗi cung ứng?

Hiện nay rất nhiều nghiên cứu về công nghiệp 4.0 và những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, kỹ thuật số, vật lý, sinh học làm thay đổi nhiều đến đời sống con người. Trong phạm vi bài báo này, tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu, chúng tôi chỉ có thể giới thiệu một số vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng này hy vọng phần nào giúp bạn đọc bước đầu tìm hiểu việc ứng dụng công nghiệp 4.0 vào logistics và Quản trị chuỗi cung ứng.

Cách mạng công nghiệp 4.0

Đây là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ tư, sau cuộc cách mạng lần thứ ba là tự động hóa. Cuộc cách mạng này là kết quả của những tiến bộ nhảy vọt của công nghệ thông tin, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và người máy, sinh học, vật liệu mới và công nghệ nano.

Khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0 xuất phát từ khái niệm Industrie 4.0 trong báo cáo của chính phủ Đức vào năm 2013. Trong đó nêu rõ: Industrie 4.0 kết nối các hệ thống những cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, các chức năng và quy trình bên trong. Như vậy công nghiệp 4.0 ra đời ngay trong cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ 3, quá trình tự động hóa. Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn kinh tế thế giới đã tóm tắt quá trình tiến bộ kỹ thuật của loài người như sau:

• Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.

• Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn ra nhờ sử dụng điện năng để sản xuất hàng loạt.

• Cuộc cách mạng lần thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.

• Cuộc cách mạng lần 4 có nền tảng  từ cuộc cách mạng lần 3, đó là sự kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học.

Cuộc cách mạng 3.0 dựa vào hai trụ cột chính là máy tính và tự động hóa.

Cuộc cách mạng 4.0 phát triển trên 3 trụ cột chính là kỹ thuật số, công nghệ sinh học và vật lý. Trong đó kỹ thuật số trong 4.0 cốt lõi là Trí tuệ nhân tạo (AI),  Vận vật kết nối (IoT), Người máy (ROBOT và COBOT), Xử lý dữ liệu lớn (big data).

Quá trình tự động hóa (3.0) trong một nhà máy bắt đầu từ việc tự động hóa các máy công cụ sau đó là tự động hóa dây chuyền sản xuất, sau khi có các dây chuyền sản xuất tự động sẽ là bước kết nối tự động các dây chuyền trên nhằm tạo ra một nhà máy thông minh. Đấy là bước đi ban đầu của cách mạng 4.0.

Chúng ta có thể minh họa quá trình phát triển này theo sơ đồ sau:

Sự kết hợp này đòi hỏi công nghệ thông tin phải phát triển nhằm tạo ra trí tuệ nhân tạo. Có thể nói trí tuệ nhân tạo là sản phẩm của sự kết hợp giữa công nghệ máy tính và sinh học. Những sản phẩm làm ra trí tuệ nhân tạo phải có sự giúp đỡ của công nghệ nano và các vật  liệu mới.

Các cơ sở thông minh cần được liên kết với nhau qua mạng máy tính. Như vậy từng đơn vị (máy móc, thiết bị) trong cơ sở thông minh cũng phải được kết nối với nhau qua mạng máy tính, tức là nhờ vạn vật kết nối (Internet of Things-IoT). Khi được kết nối qua internet, chúng ta sẽ bước đầu có một không gian ảo trên mạng internet mô tả một không gian thực hiện hữu. Vì vậy chúng ta có khái niệm hệ thống không gian thực ảo (Cyber-Physical system). Hệ thống mạng không thể làm việc này nếu không có điện toán đám mây (Cloud Computing). Khối lượng thông tin từ các IoT đưa lên mạng là rất lớn, không thể tập trung một chỗ được, đòi hỏi phải phi tập trung, điện toán đám mây giúp làm việc này.

Điện toán đám mây còn được gọi là điện toán máy chủ ảo. Thuật ngữ đám mây  là một lối nói ẩn dụ. Theo tổ chức Xã hội máy tính (IEEE): Nó là hình mẫu trong đó thông tin được lưu trữ thường trực tại một số máy chủ trên internet và chỉ lưu trữ tạm thời trên các máy tính của khách, bao gồm máy tính xách tay, trung tâm giải trí, máy tính trong doanh nghiệp,… Điện toán đám mây là khái niệm tổng thể bao gồm cả các khái niệm như phần mềm dịch vụ Web 2.0. Dịch vụ Google AppEngine cung cấp những ứng dụng kinh doanh trực tuyến thông thường, có thể truy cập từ một trình duyệt web, các phần mềm và thông tin được lưu trữ trên máy chủ. Điện toán đám mây sẽ cung cấp cho ta các dịch vụ, phần mềm mà không cần biết là đang làm việc với máy chủ nào, vì vậy còn gọi là máy chủ ảo. Như vậy điện toán đám mây giúp chúng ta có một hạ tầng cơ sở kỹ thuật số rộng lớn hơn nhiều.

Trí tuệ nhân tạo, vạn vật kết nối (IoT), người máy (ROBOT và COBOT), xử lý dữ liệu lớn (big data) là những thành phần không thể thiếu cho một hệ thống thông minh.

Vạn vật kết nối, hay cụ thể hơn là mạng lưới vạn vật kết nối internet là một liên mạng, trong đó các thiết bị, phương tiện, các trang thiết bị khác được nhúng với các bộ phận điện tử, phần mềm, cảm biến, cơ cấu chấp hành cùng với khả năng kết nối mạng máy tính giúp các vật này có thể thu nhập và truyền dữ liệu. IoT là hạ tầng cơ sở toàn cầu phục vụ cho xã hội thông tin, hỗ trợ các dịch vụ điện toán chuyên sâu thông qua các vật thể (cả thực lẫn ảo) được kết nối với nhau nhờ vào công nghệ thông tin và truyền thông hiện hữu được tích hợp. Định nghĩa trên được tổ chức Global Standarts Initiative on Internet of Things (IoT-GSI) đưa ra vào năm 2013.

Hệ thống IoT cho phép vật được cảm nhận hoặc điều khiển từ xa thông qua hạ tầng mạng hiện hữu.

Nhờ những công nghệ kể trên các thực thể thông minh ra đời, đó có thể là ngôi nhà thông minh, nhà máy thông minh,… Ngôi nhà thông minh là một ví dụ. Đó là ngôi nhà có trang bị các thiết bị IoT như: camera giám sát, TV, tủ lạnh, bếp, hệ thống đèn, điều hòa nhiệt độ,… Nhờ sự liên kết qua internet của các IoT này chủ nhà có thể theo dõi, điều khiển từ xa ngôi nhà của mình qua máy tính, hoặc các IoT có thể được điều khiển tự động qua một phần mềm riêng.

Logistics 4.0 & quản trị  chuỗi cung ứng thông minh

Theo sự tiến bộ kỹ thuật của cách mạng công nghiệp 4.0 logistics và Quản trị chuỗi cung ứng (SCM) sẽ biến đổi ra sao. SCM ngoài phần gắn với logistics còn là vấn đề thương mại. Giao dịch thương mại điện tử phát triển là một phần không thể thiếu được với SCM thông minh. Thực chất đây là một chuỗi gồm nhiều công đoạn với những công nghệ, phương tiện khác nhau. Tuy nhiên có thể xem xét các thành phần chính tham gia vào chuỗi là các công việc giao nhận, vận chuyển, xếp dỡ, bảo quản hàng hóa.

Trong khâu vận chuyển, các phương tiện vận tải là những IoT trong logistics 4.0. Mục tiêu hướng tới là các phương tiện tự hành IoT. Những cố gắng phát triển theo hướng này hiện nay chúng ta đã có máy bay không người lái, ôtô tự hành  được đưa vào sử dụng. Các phương tiện vận tải hàng hóa tự hành IoT chắc sẽ xuất hiện trong tương lai không xa, đó là các ôtô tải, đoàn tàu đường sắt, tàu thủy tự hành sẽ ra đời. Đó là các IoT của logistics 4.0.

Nhà kho thông minh phải là nhà kho với trang thiết bị IoT. Trong đó có các kệ xếp hàng IoT, hệ thống kiểm tra và giám sát IoT bao gồm các thiết bị thông gió, làm mát (lạnh)… đảm bảo yêu cầu bảo quản hàng hóa, giám sát an ninh, phòng chống cháy nổ,…Các máy móc thiết bị làm hàng cũng được tự động hóa và gắn kết với mạng.

Rõ ràng là các IoT đóng vai trò then chốt trong các cơ sở thông minh này. Với các IoT này chúng ta sẽ xây dựng đươc một hệ thống logistics ảo (Cyber) trên mạng và qua đó có thể điều khiển, hay để tự hoạt động qua sự giám sát của con người.

Một vấn đề cần trao đổi thêm là cách mạng 4.0 đưa đến sự chuyển giao trí thông minh, sự tự động và quyết định tự động tới các máy móc thiết bị (IoT), tới các thành phần của chuỗi cung ứng, logistics 4.0. Trí thông minh nhân tạo (AI) đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Vai trò của con người trong đó là thế nào, khi máy móc cũng có thể tự ra quyết định? Cần khẳng định là trong logistics 4.0 và SCM thông minh con người vẫn giữ vai trò trung tâm. Trước hết là việc lập kế hoạch không có máy móc nào làm thay hoàn toàn được. Các mối liên hệ xã hội như marketing, giao dịch mua bán, … là mối quan hệ giữa con người và con người, máy móc thiết bị chỉ có thể trợ giúp mà thôi. Chính những việc làm này nên việc lập kế hoạch vẫn phải là con người. Vì vậy có thể nói tự động, bán tự động ra quyết định  và con người là chìa khóa tới logistics và SCM thông minh trong kỷ nguyên 4.0.

Theo: Vietnam Logistics Review

Ứng dụng ICT: Tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp

Máy móc, trang thiết bị hiện đại cùng các hệ thống phần mềm chính xác, nhanh chóng được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Điều này giúp cho việc xử lý thông tin của các công ty trở nên dễ dàng, chính xác và hiệu quả.

Khoa học công nghệ ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc công nghệ thông tin và truyền thông (ICT – Information Communication Technology) được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả hơn. Máy móc, trang thiết bị hiện đại cùng các hệ thống phần mềm chính xác, nhanh chóng được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Điều này giúp cho việc xử lý thông tin của các công ty trở nên dễ dàng, chính xác và hiệu quả. Từ đó, công ty có thể giảm bớt các sai sót không đáng có, giúp tiết kiệm nhiều chi phí có liên quan như: chi phí triển khai, thực hiện và khắc phục sự cố.

Mặt khác, khi công nghệ được ứng dụng đồng bộ trong việc xử lý các vấn đề mang tính quy trình theo kế hoạch cố định, các DN có thể tiết kiệm rất nhiều chi phí cho việc tuyển dụng, đào tạo và trả lương nhân viên – những người đã và đang xử lý các thao tác nghiệp vụ mà ICT có thể làm nhưng xác suất xảy ra sai sót chắc chắn sẽ hơn ICT. Như vậy, ứng dụng ICT sẽ giúp DN cắt giảm chi phí, kiểm soát được rủi ro tốt hơn so với khi không ứng dụng.

Cùng với việc ứng dụng ICT, quy trình xử lý công việc của công ty chắc chắn sẽ đơn giản và tinh gọn hơn. Chính điều này sẽ tạo điều kiện để các DN tập trung nhiều nguồn lực hơn cho việc thay đổi, cải tiến hoạt động của mình, từ cải tiến sản xuất đến cải tiến quản lý, cải tiến quy trình… giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ của công ty. Một khi chi phí được cắt giảm thì giá thành sản phẩm sẽ được giảm xuống, nhờ vậy, DN sẽ tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường, khách hàng sẽ gia tăng, doanh thu và lợi nhuận DN sẽ tăng theo. Đồng thời, chất lượng sản phẩm và dịch vụ được nâng cao tất yếu sẽ tạo ra được điểm khác biệt cho sản phẩm và dịch vụ của công ty. Trong thời đại công nghiệp 4.0 này, kết hợp với nhu cầu ngày càng cao và thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng thay đổi ngày càng nhanh thì chu kỳ thay đổi cần rút ngắn lại. Và sự thay đổi này tất yếu sẽ dẫn đến sự thúc đẩy cải tiến sản phẩm tạo ra sự khác biệt. Khi đó, nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm sẽ tăng lên.

Tại Việt Nam, số lượng cũng như mức độ các DN ứng dụng ICT vào quản lý và sản xuất chưa nhiều, một phần là do phần lớn các DN Việt Nam hiện nay là DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ, quy mô vốn hạn chế. Do đó, việc đầu tư ứng dụng ICT còn rất hạn chế. Song, nếu không ứng dụng ICT thì các DN không thể nào cắt giảm một cách hiệu quả được các loại chi phí như: chi phí trả lương cho người lao động, chi phí khắc phục sai sót, chi phí cơ hội do thời gian thực hiện sẽ kéo dài hơn rất nhiều so với khi ứng dụng ICT… và đặc biệt là về chi phí cơ hội. Một DN không ứng dụng tốt ICT sẽ dễ dàng làm thất thoát nguyên vật liệu và thành phẩm hơn vì việc thống kê nguyên vật liệu và thành phẩm sẽ do con người thực hiện, mà tính chính xác trong hoạt động của con người thì chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: cảm xúc, trạng thái tâm lý, sức khỏe, áp lực, thời gian làm việc, môi trường làm việc, chế độ làm việc,… và cơ chế quản lý. Hoạt động cơ bản nhất và phổ biến nhất đối với các DN Việt Nam phải kể đến đó là công tác quản lý kho. Tuy nhiên, hoạt động quản lý kho của các DN này còn rất thủ công, các chương trình, hệ thống quản lý kho hiện đại như Mã vạch và laser, wireless và RFID, EDI, WMS, ERP, GPS hầu như rất ít được biết và dùng đến.

Theo kết quả khảo sát một số DN trên địa bàn TP. HCM, bao gồm các DN sản xuất nguyên vật liệu, DN sản xuất hàng tiêu dùng, DN logistics, thuộc lĩnh vực khác thì hầu hết các DN này chỉ sử dụng ICT ở mức độ sơ đẳng, tức là chủ yếu là sử dụng điện thoại và máy tính, còn các loại ICT hiện đại như RFID, EDI, WMS, ERP hay GPS đều rất hạn chế. Phần lớn các DN khi được hỏi thì có khoảng 90% các DN này không sử dụng EDI, khoảng 75%  không dùng đến RFID, cũng khoảng 75% DN không sử dụng đến GPS; bên cạnh đó, cũng có đến hơn 60% các DN không sử dụng hệ thống WMS. Điều này cho thấy trên thực tế các DN Việt Nam chưa thật sự chú trọng vào việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào công tác quản lý. Điều này sẽ làm cho các DN không thể cắt giảm được các chi phí hoạt động một cách hiệu quả được. Hệ quả tất yếu là các DN sẽ khó gia tăng được lợi nhuận. Và trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, việc không cắt giảm được chi phí, không tăng được tính chính xác, nhanh chóng và linh hoạt trong hoạt động sẽ không thu hút được khách hàng, do đó, không duy trì được lòng trung thành của các khách hàng. Như thế, trong thời gian ngắn, khi các đối thủ cạnh tranh khác áp dụng tốt ICT vào quản lý và sản xuất thì chắc chắn là các DN Việt Nam có thể duy trì chỗ đứng trên thị trường. Đây thật sự sẽ gây ảnh hưởng rất xấu cho các DN Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Theo: Vietnam Logistics Review

Trái cây Việt Nam trong chuỗi giá trị logistics

Trái cây Việt Nam hiện đã đáp ứng được các tiêu chí an toàn vệ sinh thực phẩm và chỉ tiêu chất lượng của các nước nhập khẩu khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… Vấn đề đặt ra là làm sao để trái cây Việt Nam (VN) ngày càng mở rộng và có vị trí vững vàng trên thị trường tiêu dùng thế giới.

Bảo vệ “sân nhà”,  tiến ra “sân người”

Mặc dù những loại trái cây nhập khẩu có giá khá đắt đỏ nhưng với hình thức, màu sắc hấp dẫn, nhiều người tiêu dùng vẫn chọn lựa để bày mâm ngũ quả hoặc làm quà biếu, tặng trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua. Thị trường hoa quả nhập khẩu chào năm mới 2018 khởi động từ khá sớm và rất sôi động trong những ngày Tết với các loại trái cây có nguồn gốc từ Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand…

Theo Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc, nhu cầu tiêu thụ trái cây tươi trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, nhưng mức cung chỉ mới đạt 2,8%. Đây là thị trường nhiều tiềm năng cho các nước có thế mạnh nông nghiệp. Nước ta nằm trong số những quốc gia có thể hưởng lợi từ xuất khẩu trái cây, nhất là với các Hiệp định thương mại được ký kết gần đây.

Điều này cho thấy 02 vấn đề: Thu nhập của một bộ phận người VN đã được nâng cao, số người đã và đang giàu tăng lên; Chất lượng cuộc sống ngày càng được quan tâm, đặc biệt người tiêu dùng trong nước ưa chuộng các loại trái cây, rau củ ngon, chất lượng, lạ, an toàn thực phẩm.

Việc nhập khẩu các loại trái cây từ các nước đang tăng không phải là trở ngại lớn cho ngành rau củ quả trong nước mà đây chính là động lực giúp cho người sản xuất, các doanh nghiệp cải thiện quy trình sản xuất tốt hơn trước đây, tuân thủ tiêu chí an toàn vệ sinh thực phẩm chặt chẽ hơn để làm ra sản phẩm chất lượng tốt, đủ khả năng cạnh tranh với sản phẩm từ nước ngoài ngay trên sân nhà. Có như vậy, người tiêu dùng trong nước mới được đối xử công bằng với người tiêu dùng thế giới.

Việc trái cây ngoại đang tiến vào thị trường VN là điều không thể tránh khỏi. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, hàng ngoại vào thị trường VN là xu thế tất yếu của hội nhập, giúp người tiêu dùng có thêm sự lựa chọn trong chi tiêu của mình. Đồng thời cũng giúp các nhà sản xuất nhận ra xu hướng tiêu dùng hiện nay.

Đây chính là câu chuyện gợi mở cho những nhà quản trị đất nước, trước hết là những người có trách nhiệm với nền nông nghiệp Việt Nam, từ góc độ vĩ mô. Với tỷ lệ nhập khẩu rau củ, trái cây từ các thị trường Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan,… như vừa qua, cho thấy trái cây ngoại đang xâm nhập mạnh vào thị trường Việt Nam. Tất nhiên hiện nay, với các mặt hàng trái cây nhập khẩu, chỉ phân khúc thị trường tiêu dùng khá, thu nhập cao mới ưu tiên chọn lựa vì họ không phải tính toán nhiều trong chi tiêu.

Có thể thấy, trái cây nhập khẩu về VN đang tăng dần so với những năm trước đây, nhưng không và sẽ không đủ sức để đánh bật thị hiếu tiêu dùng trong nước, mà chỉ là chất xúc tác để thúc đẩy ngành rau củ, trái cây trong nước phát triển, khi chất lượng trái cây trong nước vẫn đảm bảo và được nhiều hệ thống bán lẻ lựa chọn để phân phối.

Chúng ta thực sự mừng khi xuất khẩu trái cây của Việt Nam những năm qua tạo được những dấu ấn mạnh mẽ, năm 2016 đạt 2,458 tỷ USD, tăng bình quân 1,25 lần/năm trong giai đoạn 2003 – 2016. Giá trị xuất khẩu rau quả trong năm 2017 đạt khoảng 3,16 tỷ USD tăng 43% so với năm 2016. Như vậy, có thể chứng minh rằng, trái cây VN vẫn đạt chất lượng cao để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thế giới. Theo đánh giá của Hiệp hội rau quả Việt Nam, trái cây VN hiện đã đáp ứng được các tiêu chí an toàn vệ sinh thực phẩm và chỉ tiêu chất lượng của các nước nhập khẩu khó tính. Hiện nay, rau quả của VN đã có mặt trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhiều thị trường khó tính trong tiêu thụ các mặt hàng trái cây đã đồng ý nhập khẩu nhiều loại mặt hàng trái cây chủ lực của Việt Nam như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand. Đặc biệt, việc xuất khẩu lô vú sữa VN đầu tiên sang thị trường Mỹ vào cuối năm vừa qua đã chứng minh rằng, người sản xuất trái cây trong nước đã hiểu và dần đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng nước ngoài.

Những Cơ Hội Phát Triển

Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng bình quân trên  20%/năm, phấn đấu giá trị xuất khẩu năm 2020 đạt trên 4,5 tỷ USD (tăng hơn 80% so với năm 2016), trong đó sản phẩm quả chiếm hơn 3,6 tỷ USD (> 80%). Dự kiến năm 2030, xuất khẩu rau quả đạt trên 7 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu quả các loại trên 6 tỷ USD, giữ vững cán cân thương mại giữa xuất và nhập hơn 1,5 tỷ USD. Những con số dự kiến này hoàn toàn có cơ sở.

Theo Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc, nhu cầu tiêu thụ trái cây tươi trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, nhưng mức cung chỉ mới đạt 2,8%. Đây là một thị trường nhiều tiềm năng cho các nước có thế mạnh nông nghiệp. Nước ta nằm trong số những quốc gia có thể hưởng lợi từ xuất khẩu trái cây, nhất là với các hiệp định thương mại được ký kết gần đây cũng như trong tương lai.

Nhiều người lạc quan nhận định rằng, trái cây sẽ không mấy chốc qua mặt lúa gạo. Nếu tổ chức sản xuất tốt, thị trường tiếp cận tốt thì thời gian sẽ ngắn hơn. Nếu truy xuất được nguồn gốc, trái cây của VN không chỉ dừng lại ở 40 nước. Không thể không lạc quan, bởi là một nước nhiệt đới, đặc biệt là ở khu vực miền Tây Nam bộ, vùng đất trù phú với những vườn cây ăn trái quanh năm, VN sở hữu nhiều loại hoa quả mà ít nước có được.

Chỉ riêng tỉnh Tiền Giang, giá trị cây ăn quả tăng liên tục 6 năm qua. Diện tích cây sầu riêng hiện tại trên 9.000 ha. Hiện nay, tỉnh này đang quan tâm đến cơ chế hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Bên cạnh đó, mong muốn được hỗ trợ các dự án đê bao cho 1.000 ha cây ăn trái ở huyện Cái Bè. Phải nói rằng, ĐBSCL vẫn là vùng sản xuất cây ăn quả chủ lực, chiếm 38% diện tích của cả nước. Trong nhóm 10 loại cây ăn quả chủ lực gồm: thanh long, sầu riêng, chuối, dứa, xoài, cam, bưởi, vải, nhãn, chôm chôm, thì cây thanh long có diện tích (tăng 23,9%) và sản lượng (17,3%). Kế đến là sầu riêng với 17,6% tăng trưởng về diện tích và 44,2% về sản lượng, có nhiều tiềm năng và phát triển mạnh nhất.

Điều đặc biệt quan trọng để ngành rau củ, trái cây trong nước đủ sức cạnh tranh và có động lực thúc đẩy phát triển, chính là người nông dân đã và đang tham gia sản xuất với tinh thần học hỏi, cầu tiến, biết tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng để tạo ra sản phẩm được người tiêu dùng lựa chọn, không để xảy ra phải “giải cứu”, “hỗ trợ tiêu thụ” khi hàng hóa sẵn có mà không ai mua.

Để đạt mục tiêu xuất khẩu trái cây nói riêng, rau củ quả nói chung, Nhà nước cần tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp hợp tác với nhóm sản xuất (doanh nghiệp sẽ là chủ lực trong liên kết), có cơ chế phù hợp để mang lại lợi ích cao nhất cho người sản xuất. Tức là đặt trái cây Việt trong chuỗi giá trị logistics… để trái cây đến với người tiêu dùng. Hiện nay, Úc là một trong những nước có các quy định về kiểm dịch ngặt nghèo nhất thế giới. Mở cửa được thị trường Úc là một phép thử quan trọng cho trái cây xuất khẩu VN. Thị trường Mỹ ngoài các quy định về an toàn thực phẩm còn chịu sự cạnh tranh của nhiều nước Caribe có cùng chủng loại trái cây vùng nhiệt đới như chúng ta.

Các doanh nghiệp đều biết rằng, trái nhãn xuất khẩu vào thị trường Mỹ bắt buộc phải sản xuất theo đúng quy trình hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn của nước này. Đó là chưa kể phải đáp ứng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt của hệ thống kiểm soát Mỹ như xử lý chiếu xạ, phải có chứng nhận an toàn của Cục Bảo vệ thực vật Việt Nam. Cơ quan kiểm dịch động thực vật Mỹ đã từng chỉ rõ 18 loài côn trùng có nguy cơ xâm nhập vào Mỹ trong các lô hàng xoài tươi xuất khẩu từ Việt Nam.

Nhiều vấn đề đang đặt ra để hy vọng trở thành hiện thực. Vấn đề khó khăn nhất hiện nay là quản lý chất lượng cây giống. Các rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu, tổ chức thị trường như thế nào cũng còn nhiều  thách thức.

Theo: Vietnam Logistics Review

Phát triển logistics: Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam

Làm thế nào để hệ thống logistics quốc gia phát triển nhằm tạo môi trường vĩ mô cho tăng trưởng bền vững là bài toán đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp logistics trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Logistics và cơ hội cho phát triển các doanh nghiệp   

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, logistics đã xuất hiện từ lâu. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa tìm được một thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ logistics sang tiếng Việt. Có lúc logistics được dịch là hậu cần, có tài liệu lại dịch là tiếp vận hoặc kinh tế cung ứng, đảm bảo, thậm chí là vận tải, giao nhận… và các cách dịch đã đề cập đều chưa phản ánh một cách đầy đủ và đúng đắn về bản chất của logistics. Vì vậy, việc giữ nguyên thuật ngữ logistics không dịch sang tiếng Việt như trong Luật Thương mại (2005) là cần thiết, đồng thời bổ sung thuật ngữ logistics vào vốn từ tiếng Việt.

Ngày nay, hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại nhiều thành công cho các công ty/tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Nói đến logistics là nói đến hiệu quả, nói đến tối ưu hóa trong các ngành, các doanh nghiệp và nền kinh tế. Logistics đồng nghĩa với hiệu quả của cả quá trình, chuỗi cung ứng, nó đối lập với lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm mà làm tổn hại đến lợi ích toàn cục, lợi ích quốc gia. Vì vậy, phát triển hệ thống logistics quốc gia là phải phát triển đồng bộ các yếu tố từ thể chế pháp luật logistics, cơ sở hạ tầng logistics, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics và thị trường, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics. Chỉ có một hệ thống logistics quốc gia phát triển thì môi trường kinh doanh vĩ mô mới thực sự được thiết lập, là cơ sở cho việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của nền kinh tế quốc gia.

Trong nền kinh tế thị trường, logistics chính là sự kết nối và hợp tác nên ngày càng đóng vai trò quan trọng, là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để nâng cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Ở tầm vĩ mô, logistics giúp tối ưu hóa quá trình phân phối, vận chuyển, dự trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia phát triển bền vững. Ở tầm vi mô, logistics đóng vai trò to lớn trong việc hóa giải  bài toán đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp một cách có hiệu quả, thông qua việc tối ưu hóa các hoạt động trong quá trình sản xuất – kinh doanh, từ đó giúp giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo nhiều nghiên cứu, chi phí logistics chiếm khoảng 10% giá trị của hàng hóa lưu thông trong nước và chiếm tới 40% đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành logistics bởi về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược của khu vực, có “mặt tiền” hướng ra biển Đông, bờ biển trải dài, nhiều cảng biển, sân bay quốc tế, hệ thống đường bộ, đường sắt xuyên quốc gia, hành lang kinh tế… Bên cạnh đó, với việc gia nhập WTO, AEC, Việt Nam đã trở thành quốc gia mở cửa về thương mại, hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, có nhiều cơ hội để tiếp cận với các thị trường rộng lớn của khu vực và thế giới với các ưu đãi thương mại (như: giảm thuế quan và phi thuế, áp dụng các quy chế MFN, NT, GSP…) cho sản phẩm, dịch vụ.  Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để tiếp cận với các thành tựu KH&CN mới nhất, phương thức quản lý tiên tiến của thế giới, đồng thời, hoạt động logistics ở Việt Nam cũng đã được sự quan tâm nhiều hơn của các cấp quản lý ở Trung ương, địa phương và các doanh nghiệp…

Giải pháp phát triển logistics

Để tận dụng hiệu quả những cơ hội, phát huy các tiềm năng thúc đẩy hệ thống logistics quốc gia phát triển mạnh mẽ, tạo môi trường cho phát triển, đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu và hội nhập của nền kinh tế, thiết nghĩ, cần sớm thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

» Tiếp tục nâng cao nhận thức về logistics và hệ thống logistics quốc gia trong nền kinh tế. Việc nâng cao nhận thức về logistics của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý các ngành, các cấp ở trung ương và địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi, nâng mức ủng hộ cho logistics phát triển và giúp các doanh nghiệp giải quyết các bài toán đầu vào, đầu ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách hiệu quả.

Phát triển hệ thống logistics quốc gia là phải phát triển đồng bộ các yếu tố từ thể chế pháp luật logistics, cơ sở hạ tầng logistics, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics và thị trường, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics.

 

 » Sửa đổi, bổ sung chính sách logistics, đồng thời nhanh chóng triển khai xây dựng Chiến lược và quy hoạch phát triển logistics đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, từ đó có sự thống nhất trong quản lý và kế hoạch, tiến trình phát triển dài hạn cho ngành logistics. Trong đó, Chiến lược tổng thể phát triển ngành logistics phải có tầm nhìn dài hạn và phải có sự kết nối – tích hợp được các chiến lược phát triển kinh tế các ngành, các địa phương và nền kinh tế quốc dân cũng như các chương trình hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cần thành lập Ủy ban Logistics quốc gia – Người nhạc trưởng có thể liên kết và giải quyết tối ưu các vấn đề kinh tế thương mại liên ngành, liên vùng trong nền kinh tế quốc dân.

 » Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu tiên cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics, xây dựng các khu công nghiệp logistics ở Việt Nam. Kết nối liên hoàn các cơ sở hạ tầng giao thông, thương mại, công nghệ thông tin và các lĩnh vực dịch vụ khác có liên quan theo hướng phải đảm bảo tối ưu hóa dòng vận động hàng hóa, tiền tệ, thông tin với mục tiêu giảm chi phí thấp nhất trong phân phối, lưu thông của nền kinh tế quốc dân. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống đường gom, các trung tâm logistics kết nối các phương tiện vận tải ở các địa phương.

 » Cần có chính sách đặc thù về đất cho xây dựng các trung tâm logistics theo từng cấp độ nhằm kết nối hiệu quả các phương tiện vận tải, thực hiện liên kết kinh tế hiệu quả giữa các ngành, địa phương và vùng lãnh thổ, thông quan đó thúc đẩy lưu thông và xuất nhập khẩu hàng hóa để sớm đưa Quyết định 1012/QĐ – TTg ngày 03/07/2015 vào cuộc sống.

 » Đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ phát triển ngành logistics. Xây dựng và phát triển các sàn giao dịch thông tin logistics trên các địa bàn. Công nghệ thông tin ứng dụng hiệu quả sẽ giúp các

doanh nghiệp logistics nhanh chóng cập nhật các phương tiện, hàng hóa được vận chuyển giữa các bên liên quan, kịp thời triển khai các dịch vụ  liên quan. 

Theo: Vietnam Logistics Review.

Năm Mậu Tuất và những vận hội mới

Năm Mậu Tuất sẽ giúp cho mọi người làm ăn phát đạt, năng động trong mọi lĩnh vực, tìm được đối tác, giữ được nghề hay, phát triển được cái có sẵn và được sự tín nhiệm với chuyên môn của mình.

Tiến sĩ Lê Xuân Phương sinh năm 1961 tại Hà Nội. Từng có nhiều năm là thủy thủ tàu viễn dương. Sau này, ông nghiên cứu về cổ vật và phong thủy. Ông là một trong những người có nhiều năm nghiên cứu về phong thủy trong đời sống văn hóa, tâm linh của người Việt và lý giải nó trong mối quan hệ biện chứng với con người. Hiện ông là tiến sĩ xã hội học chuyên ngành phong thủy, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển doanh nhân và doanh nghiệp Đông Nam Á. Nhân dịp năm mới, chúng tôi đã có cuộc tản mạn cùng ông về hình ảnh những chú chó cùng những biến đổi và vận hội của năm mới Mậu Tuất.

Thưa Tiến sĩ Lê Xuân Phương, mỗi năm, chúng ta đều mơ ước, cầu mong những điều tốt lành, những vận hội mới sẽ đến với tất cả mọi người. Theo quy luật phong thủy, theo ông, năm Mậu Tuất sẽ có những ấn tượng gì?

Mùa xuân là mùa đâm chồi nảy lộc của cây cối mở đầu cho một năm, đó là dự định mới tương lai mới, mùa xuân tạo cảm hứng mới mẻ là động lực cho cuộc sống con người. Theo cách làm lịch của người xưa để thời gian có tên gọi họ đã dùng mười thiên can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý hòa với mười hai địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Can dương đi với chi dương, can âm đi với chi âm tạo thành sáu mươi hoa giáp bắt đầu từ Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn… kết thúc ở Quý Hợi. Sáu mươi hoa giáp này có quan hệ âm dương ngũ hành khác nhau, người xưa đã chiêm nghiệm những đặc tính của từng năm những quy luật đó mà có cách vận dụng và ứng xử phù hợp. Năm nay 2018 là năm Mậu Tuất thuộc cung Tốn hành Mộc. Đặc điểm của hành Mộc là “mở ra”, là “nhộn nhịp”, vì thế năm Mậu Tuất 2018 này có nhiều biến đổi về xã hội, nhộn nhịp vui tươi, năng động, nhanh chóng như sấm chớp của cung Tốn nên các ngành nghề như chế biến sẽ phát triển rất mạnh, dồi dào về tài chính, đáp ứng được nhiều khoản thu, chi. Ngành may mặc, chế biến gỗ, nông lâm thủy sản được kế thừa của năm Đinh Dậu tiếp đà phát triển. Ngành du lịch, y tế, đào tạo bắt kịp với nhu cầu cấp bách đi lên của thời đại nên có tương lai rất tốt để phát triển nhanh, mạnh. Ngành xây dựng, giao thông vận tải có nhiều biến động lớn, ngoài sự phát triển bùng nổ còn đi sâu vào chất lượng, mỗi một công trình phục vụ cho dân dụng đạt được công năng sử dụng mà nó còn như là một tác phẩm nghệ thuật đóng góp cái đẹp cho đời. Do đó có sự giám sát nhiều hơn của xã hội và các ngành chức năng, đòi hỏi sự hợp lý hóa các công trình từ giải pháp thi công đấu nối với các vùng kinh tế một cách khoa học, hài hòa. Ngành kim khí, thiết bị, máy móc công trình được thay đổi và lựa chọn đúng với tính chuyên dụng cao. Đây là năm bản lề cho những năm tiếp theo để cải thiện hiệu quả lao động. Ngành bất động sản được sự đóng góp chân tình của người tiêu dùng để sản phẩm bất động sản tối ưu, hoàn thiện. Kế thừa năm Đinh Dậu là Chấn Vi Lôi danh vang thiên hạ, chuyển sang năm Mậu Tuất là Tốn Vi Phong trong quan hệ quốc tế mọi việc sẽ nhanh như sấm chớp, đó là “không gì không lợi”. Xã hội biến đổi ngày một nhanh chóng, hòa nhập với trào lưu phát trển của khu vực và thế giới.

Mỗi năm qua đi, mọi người đều có những niềm vui, nỗi buồn và có những dự định cho năm mới tấn tới. Năm nay, các con giáp sẽ tương ứng với tuổi mình như thế nào để đón chào những điều tốt đẹp, thưa ông?

Ở mỗi con người trong các nhóm tuổi thuộc cung ngũ hành khác nhau thì năm Mậu Tuất cung Tốn hành Mộc có những tác động khác nhau. Với người tuổi Hỏa: Kỷ Dậu, Ất Mão, Tân Mão, Quý Mão, Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Đinh Sửu, Nhâm Ngọ là Mộc sinh Hỏa, là năm có nhiều may mắn, thuận lợi về sự nghiệp, cuộc sống, tài chính và sức khỏe. Năm Mộc với người tuổi Mộc: Giáp Tý, Ất Sửu, Quý Dậu, Canh Thìn, Tân Tỵ, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Giáp Thìn, Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Mộc gặp Mộc, có sự chung sức đồng lòng, lưỡng Mộc thành lâm, tốt đẹp cho sự hợp tác, thu nhập cao bởi quẻ thuần Mộc là Phong Lôi Ích tức “không gì không lợi”, rất tốt cho cầu tài, sự nghiệp và chức vụ thì bền vững. Với những người tuổi Kim là Kim khắc chế Mộc, tuổi là Giáp Tuất, Ất Hợi, Quý Mùi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Tý, Tân Sửu, Bính Ngọ, Ất Tỵ, Đinh Mùi, Tân Dậu, Nhâm Tuất, những tuổi này luôn có vị thế bởi tuổi Kim khắc chế năm Mộc, họ là chủ được nhiều công việc và góp yếu thành khỏe, góp thiếu thành đủ bởi vì Kim ghép ván thành thuyền lớn gọi là “Ván đóng thuyền” tức liên kết từ nhỏ thành lớn. Những tuổi này có chức vụ hay trọng trách lớn dễ đạt được mục tiêu. Với những người tuổi Thổ: Nhâm Thân, Bính Tý, Kỷ Mão, Giáp Thân, Đinh Hợi, Canh Dần, Quý Tỵ, Bính Thân, Kỷ Hợi, Nhâm Dần, Mậu Thân, Tân Hợi, Giáp Dần, Đinh Tỵ, Canh Thân, Quý Hợi gặp năm Mộc là bị hút chất trong đất do vậy những tuổi này giữ nguyên việc cũ mà làm và tuổi trẻ thì đầu tư học tập sẽ hiệu quả cao, làm ăn thì bị hao tổn nhiều, chi phí nhiều, sức khỏe thì hay bị ốm đau, đường ruột kém, phổi có vấn đề nhưng không nghiêm trọng. Với những người tuổi Thủy là Bính Dần, Tân Mùi, Mậu Dần, Nhâm Thìn, Ất Mùi, Canh Tuất, Bính Thìn, tuổi Thủy gặp năm Tốn được quẻ Phong Thủy Hoán là mọi việc từ trước đến nay hãy cải tiến, thay đổi phương pháp, vì thủy dưỡng mộc là năm sinh suất nhưng theo quẻ dịch là Phong Thủy Hoán, mọi việc cần hoán đổi phương pháp sẽ thành tựu.

Con Chó luôn được  xem là người bạn trung thành của con người. Thậm chí nhiều câu châm ngôn của các bậc lỗi lạc đã bảo: “Chó là điều duy nhất trên trái đất yêu bạn hơn yêu chính nó” (Jost Billings). Trong phong thủy cũng như dân gian Việt Nam thì con chó được ví von như thế nào thưa tiến sĩ?

Lịch can chi còn cho thấy mỗi năm có một con vật biểu tượng, như năm Mậu Tuất là chó, theo dân gian, chó có tính dũng mãnh, hảo đấu, thị giác, thính giác và vị giác đều mẫn nhuệ (tinh thông). Loài người đã sớm nuôi dưỡng, thuần phục chó như một loại gia súc trong nhà, chó có những đặc tính mà ít loài có được là trực giác và sự thông minh, khiến cho người và loài vật này có quan hệ mật thiết “khuyển mã chi tình”. Sự trung thành của chó là làm tất cả các việc cho chủ không phân biệt tốt xấu, không cần sự đãi ngộ, có gì cho chó ăn cái đó mà chó vẫn luôn trung thành. Đặc biệt là trực giác và sự thông minh giúp chó trở thành người bạn trung thành để bảo vệ chủ. Nhưng với năm Tuất thì người nghèo cũng cần cẩn thận vì chó có thể cắn áo rách. Đối với mọi người, đôi khi chó cắn cả người ngay và kẻ gian, cắn xong chó sủa “uổng uổng”, như một sự ân hận về tính hồ đồ của mình. Nên người ta không thích chó ở điểm này. Tuy nhiên nó cũng nhắc ta tránh sự nhầm lẫn sai lầm để ân hận trong cuộc đời. Năm Mậu Tuất sẽ giúp cho mọi người làm ăn phát đạt, năng động trong mọi lĩnh vực, tìm được đối tác giữ được nghề hay, phát triển được cái có sẵn và được sự tín nhiệm với chuyên môn của mình.

Như vậy là chúng ta chỉ cần chờ một năm mới an lành sẽ tới để chờ đón những vận hội mới đúng không ạ?

Năm cũ qua đi, năm mới mở ra, độc đáo của Mậu Tuất là lòng trung thành, chung thủy, không phân biệt đối xử nhau. Mục tiêu cuộc sống ổn định, gia đình chuẩn mực đạo đức được tôn trọng, lòng nhân ái được nâng cao, trong xã hội người có sự nghiệp thì có được bản lĩnh, người lao động thì có kỷ luật nghiêm, ứng xử đúng, trên dưới đồng lòng xã hội phát triển. Chúc mọi người đón xuân vui vẻ, kế thừa được bài học của người xưa dạy người để nhân ái hơn, biết cư xử đúng với vai trò của mình và nắm được quy luật của năm Mậu Tuất để vận dụng và ứng xử cho cuộc sống được tốt đẹp hơn, vui vẻ hơn.

Theo: Vietnam Logistics Review

Cuộc thi ảnh: Logistics Việt Nam – Những góc nhìn (lần thứ I – năm 2018)

 Cuộc thi ảnh mang tên Logistics Việt Nam – Những góc nhìn lần đầu tiên được tổ chức với chủ đề Khám phá nét đẹp Logistics/ Chuỗi cung ứng Xuất nhập khẩu Việt Nam nhằm phát hiện và khắc họa hình ảnh về con người, cơ sở vật chất, công cụ – công nghệ, nguồn nhân lực… đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics, chuỗi cung ứng – xuất nhập khẩu hàng hóa, để từ đó tìm ra những nét đẹp của ngành, nhằm tôn vinh những đóng góp của ngành logistics đối với nền kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. 

• Hướng đến kỷ niệm 25 năm thành lập Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (1993-2018). Và theo Quyết định số 200/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 nhằm truyền thông và nâng cao nhận thức, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực logistics Việt Nam. 

• Tạo sân chơi để khuyến khích các nghệ sĩ nhiếp ảnh chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp trên cả nước sáng tác về một lĩnh vực kinh tế vẫn còn rất mới mẻ với nhiều người; đồng thời tạo điều kiện cho những nhà nhiếp ảnh không chuyên nghiệp có cơ hội giao lưu học hỏi kinh nghiệp từ các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp.

I. Bảo trợ

– Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) – Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA)

II. Tổ chức

– Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) – Tạp chí Vietnam Logistics Review (VLR)

III. Đối tượng dự thi

– Là những người yêu thích nhiếp ảnh, các nghệ sĩ nhiếp ảnh chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, không phân biệt giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, người Việt Nam hay người nước ngoài đang làm việc và cư trú tại Việt Nam.

IV. Ban tổ chức

1. Ông Nguyễn Duy Minh – Tổng Thư ký Hiệp hội VLA – Trưởng ban
2. Ông Nguyễn Sĩ Bình – Phó Tổng Biên tập Tạp chí VLR – Phó ban
3. Bà Nguyễn Thị Thu Thủy – Chánh Văn phòng Hiệp hội VLA – Ủy viên
4. Bà Phạm Kim Liên – Chánh Văn phòng Tạp chí VLR – Ủy viên
5. Ông Bùi Thọ – Văn phòng Hiệp hội VLA – Ủy viên

V. Ban Giám khảo

1. Lý Hoàng Long, E.VAPA/ E.FIAP – Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) – Chủ tịch
2. Tiến sĩ/ Nhà báo Lê Văn Hỷ – Tổng Biên tập Tạp chí VLR – Phó Chủ tịch
3. Ông Đào Trọng Khoa – Ủy viên Ban Chấp hành/ Trưởng ban Vận tải Hiệp hội VLA – Ủy viên
4. Bùi Minh Sơn, E.VAPA/ G – E.FIAP – Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội Nhiếp ảnh TP. Hồ Chí Minh (HOPA) – Ủy viên
5. Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Hoàng Trung Thủy – Chủ nhiệm CLB Nhiếp ảnh Gia Định – Ủy viên

VI. Thể lệ

1. Yêu cầu về nội dung

– Tác phẩm dự thi là những bức ảnh có giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật ghi lại khoảnh khắc đẹp và phản ánh về các hoạt động trong lĩnh vực ở Logistics Việt Nam (hoạt động giao nhận, xếp dỡ, vận tải ở tất cả các phương thức vận tải, dịch vụ kho hàng, cảng biển, hải quan, đào tạo nhân lực, công nghệ thông tin, pháp lý, hoạt động xuất nhập khẩu…).

2. Yêu cầu về tác phẩm dự thi

– Ảnh dự thi là ảnh màu hoặc đen trắng do chính tác giả (người gửi ảnh) chụp. Tác giả phải chịu trách nhiệm về mọi vấn đề có liên quan đến bản quyền tác phẩm.

– Ảnh dự thi chưa từng đoạt giải tại các cuộc thi và các cuộc liên hoan do Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam.

– Ảnh dự thi được phép xử lý bởi các thủ pháp kỹ thuật, như: điều chỉnh độ sáng tối, độ nét, tương phản, cân chỉnh màu sắc,…

Trong trường hợp cần thiết, Ban Tổ chức có quyền yêu cầu tác giả nộp file gốc để kiểm tra thông tin. – Ảnh dự thi phải được đặt tên tác phẩm, ghi tên tác giả.

3. Hình thức dự thi: gồm 02 loại

– Đối với ảnh chụp từ máy chuyên nghiệp: Người tham gia gửi file ảnh dưới dạng kỹ thuật số và được lưu với định dạng JPEG, kích thước file 2000×3000 Pixels, (ảnh vuông mỗi chiều 2000 Pixels, ảnh Panorama chiều dài 3000 Pixels), độ phân giải 300 dpi, dung lượng mỗi file tối thiểu 5 MB, không chấp nhận file scan hoặc chụp lại từ ảnh đã in (rọi), không được ghi tên tác giả, tác phẩm và chú thích trực tiếp trên ảnh.
– Đối với ảnh chụp từ Smart phone, máy tính bảng và các thiết bị không chuyên: Ảnh phải có dung lượng từ 5MB trở lên, trường hợp ảnh được đề cử vào vòng giải, Ban Tổ chức có quyền kiểm tra file gốc để đảm bảo tính hợp lệ.

4. Hình thức chấm thi 

4.1. Vòng sơ khảo: Chấm online bằng phần mềm chuyên dụng

– Tác giả dự thi không giới hạn ảnh gửi dự thi.
– File ảnh dự thi về địa chỉ email của Ban Tổ chức: vietnamlogisticsphotos@gmail.com
– Thời gian gửi ảnh từ ngày phát động cuộc thi đến hết ngày 25.7.2018.
– Ban Giám khảo tiến hành chấm online từ ngày 01.08.2018 (5 ngày)
– Kết quả tác phẩm được chọn tham gia vòng chấm giải công khai sẽ được công bố chính thức trên website của Tạp chí VLR (www.vlr.vn).

4.2. Vòng chấm giải:

+ Những tác phẩm được chọn vào vòng chấm giải và chọn tham gia triển lãm sẽ được Ban Tổ chức thông báo để thí sinh in (rọi) ảnh và gửi về cho Ban Tổ chức trong thời gian quy định, đảm bảo các yêu cầu sau:

– Ảnh dự thi có kích thước 30cmx45cm ; nếu là ảnh vuông thì mỗi cạnh không quá 30cm.
– Ảnh không được ép plastic, không dán lên bìa cứng.
– Phía sau ảnh ghi rõ tên tác phẩm, địa điểm và thời gian chụp ảnh; tên thật của tác giả và nghệ danh (nếu có), địa chỉ nơi ở, số điện thoại, email của tác giả để Ban Tổ chức tiện liên lạc.
– Các tác phẩm không đúng với thể lệ, không ghi đầy đủ các thông tin về tác giả và tác phẩm phía sau bức ảnh, Ban Tổ chức sẽ loại không chấm giải.
– Ảnh dự thi vòng chấm giải có thể gửi trực tiếp về cho Ban Tổ chức hoặc qua đường Bưu điện. Ngoài bì thư ghi rõ: Tác phẩm tham gia cuộc thi ảnh “Logistics Việt Nam – Những góc nhìn”. Ban Tổ chức khuyến khích người tham gia nên gửi ảnh trực tiếp nhằm đảm bảo chất lượng ảnh, tránh bị trầy, xước, gãy ảnh trong quá trình vận chuyển. Trường hợp gửi Bưu điện, Ban Tổ chức không chịu trách nhiệm về những tác phẩm sai quy định hoặc bị hư hỏng, thất lạc trong quá trình vận chuyển.

• Địa điểm nhận ảnh và liên hệ: 
Tạp chí Vietnam Logistics Review

Địa chỉ: Số 33 Nguyễn Trọng Lội, phường 4, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
Bà Phạm Kim Liên – 0906 779982/ 028. 35470389
Email: vietnamlogisticsphotos@gmail.com
• Thời gian gửi ảnh tham dự vòng chấm giải: từ ngày có thông báo chính thức của Ban Tổ chức đến hết ngày 20.08.2018.
• Thời gian chấm ảnh công khai và trao giải: dự kiến là ngày 30.08.2018.

5. Các quy định khác 

– Tác giả gửi ảnh dự thi xem như chấp thuận mọi quy định trong thể lệ cuộc thi và chịu trách nhiệm về tính xác thực của thông tin đối với tác phẩm dự thi. Tác giả có tác phẩm đoạt giải phải chịu thuế thu nhập cá nhân của tiền giải thưởng theo quy định của pháp luật.
– Ban Tổ chức có quyền sử dụng các ảnh dự thi vào việc tuyên truyền (phi lợi nhuận) trước, trong và sau thời gian diễn ra cuộc thi. Những tác phẩm được sử dụng vào mục đích khác sẽ được thương thảo với tác giả.
– Ban Tổ chức không chịu trách nhiệm đối với những tranh chấp về quyền tác giả và quyền liên quan đến tác phẩm trước, trong và sau khi kết thúc cuộc thi. Đồng thời được toàn quyền sử dụng các tác phẩm cho công tác tuyên truyền, làm tư liệu cho các hoạt động phục vụ công chúng dưới mọi hình thức, không vì mục đích thương mại.
– Trường hợp tác giả vi phạm thể lệ cuộc thi hoặc khi có phát sinh vấn đề tranh chấp về quyền tác giả, tác phẩm sau khi Ban Tổ chức đã công bố, trao giải thưởng và có cơ sở để xác nhận, Ban Tổ chức sẽ thu hồi lại Giấy khen/ Bằng chứng nhận và tiền giải thưởng.
– Hội đồng Giám khảo chấm chung khảo với hình thức công khai, các thí sinh có thể đến theo dõi buổi chấm ảnh công khai theo lịch của Ban Tổ chức.
– Kết quả do Hội đồng Giám khảo chấm thi là kết quả chung cuộc, sẽ không có sự thay đổi vì bất cứ lý do nào khác.
– Lễ trao giải thưởng dự kiến được tổ chức trong tháng 3.2018.

VII. Cơ cấu giải thưởng

– 02 giải Nhất: 
+ 01 giải Nhất dành cho tác phẩm chụp bằng máy chuyên nghiệp trị giá: 7.000.000 đồng.
+ 01 giải Nhất dành cho tác phẩm chụp bằng các thiết bị máy không chuyên trị giá: 4.000.000 đồng.

– 04 giải Nhì: 
+ 02 Giải Nhì dành cho tác phẩm chụp bằng máy chuyên nghiệp trị giá: 4.000.000 đồng/giải.
+ 02 Giải Nhì dành cho tác phẩm chụp bằng các thiết bị máy không chuyên trị giá: 2.000.000 đồng/giải.

– 06 giải Ba: 
+ 03 Giải Ba dành cho tác phẩm chụp bằng máy chuyên nghiệp trị giá: 3.000.000 đồng/giải.
+ 03 Giải Ba dành cho tác phẩm chụp bằng các thiết bị máy không chuyên trị giá: 1.000.000 đồng/giải.

 10 giải Khuyến khích cho tác phẩm chụp bằng máy chuyên nghiệp mỗi giải trị giá 1.000.000 đồng/giải.

– Các tác phẩm đoạt giải sẽ được nhận Huy chương của VAPA, giấy khen và kỷ niệm chương từ Ban Tổ chức và triển lãm.
– Bên cạnh đó, những tác phẩm được chọn vào vòng chấm giải nhưng không đoạt giải sẽ được chọn tham gia triển lãm và in tập sách ảnh (nếu có), không có nhuận ảnh và cũng không phải nộp phí.
– Những tác phẩm được chọn vào triển lãm và đoạt giải thưởng sẽ được Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam – VAPA tính điểm theo quy chế.

– Lưu ý:
• Cơ cấu giải thưởng có thể thay đổi tùy theo số lượng và chất lượng tác phẩm dự thi.
• Thành viên Ban Tổ chức và Hội đồng Giám khảo không được tham gia cuộc thi.

Rất mong các nhà nhiếp ảnh, những người yêu thích nhiếp ảnh trong và ngoài ngành logistics tham khảo thể lệ cuộc thi và gửi ảnh tham dự, góp phần cho cuộc thi thành công tốt đẹp.

Theo: Vietnam Logistics review

Vận tải xanh trong dịch vụ logistics Việt Nam

Sáng 26.01.2018, tại TP.HCM Tổng Cục đường bộ Việt Nam phối hợp với các hiệp hội, tổ chức quốc tế tổ chức Hội thảo “Vận tải xanh và góp ý quy định về tiêu chí doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ xanh”

Hội thảo được Tổ chức Không khí sạch Châu Á (CAA) và Tổng Cục đường bộ Việt Nam, cùng với Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam phối hợp thực hiện.

Hội thảo lấy ý kiến của đại diện các tổ chức trong nước và quốc tế nhằm đánh giá thực trạng và định hướng phát triển vận tải hàng hóa, tập trung đối với phương thức vận tải bằng xe tải. Từ đó khuyến nghị hướng tới phát triển chương trình vận tải hàng hóa xanh ở Việt Nam.

Theo đó, đánh giá chung về việc thực hiện chương trình vận tải xanh ở Việt Nam có nhiều thuận lợi như:  Chính phủ đã quan tâm và đưa ra các định hướng phát triển và giải pháp để thực hiện phát triển xanh. Bộ GTVT cũng đã triển khai xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để thúc đẩy, phát triển vận tải xanh. Đây là cơ sở cho việc phát triển và xây dựng các chính sách về vận tải xanh tiếp theo.

Toàn cảnh Hội thảo

Các doanh nghiệp đã dần nhận thức, tiếp cận và ứng dụng các công nghệ vận tải xanh và phương thức quản lý tiến tiến vào quản trị đoàn xe giúp giảm giá thành vận tải và tăng khả năng cạnh tranh trong xu hướng hội nhập quốc tế. Ngoài ra, nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế như ADB, WB, GIZ và CAA quan tâm, hỗ trợ cho ngành giao thông vận tải trong xây dựng chương trình, kế hoạch và hành động cụ thể để phát triển nền vận tải xanh, tiên tiến tiếp cận với trình độ của khu vực.

Tuy nhiên, Hội thảo cũng đưa ra những khó khăn cần giải quyết như:

Còn thiếu các chính sách khuyến khích áp dụng, đầu tư phát triển các công nghệ vận tải xanh trong lĩnh vực vận tải

Quy mô các doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực tài chính hạn chế, trong khi đó chưa xây dựng được cơ chế tín dụng/quỹ tín dụng cho các doanh nghiệp để nâng cấp, đổi mới đoàn xe. Bên cạnh đó, còn số lượng lớn hộ kinh doanh vận tải chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.

Đại biểu chụp hình lưu niệm

Sàn giao dịch vận tải trực tuyến đầu tiên đã đi vào hoạt động, tuy nhiên, các chủ hàng – đặc biệt là các doanh nghiệp FDI vẫn chưa thực sự tham gia. Do vậy, hiệu quả giao dịch chưa đạt được như kỳ vọng

Nguồn nhân lực còn thiếu và chưa bắt kịp với trình độ phát triển của khu vực.

Đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ nhằm thực hiện mục tiêu các Chiến lược và Đề án phát triển giao thông cần một nguồn lực tài chính lớn, đây sẽ là một khó khăn đáng kể trong việc thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu vận tải hàng hóa từ đường bộ sang đường thủy nội địa và đường sắt.

Theo: Vietnam Logistics Review

Blockchain trong chuỗi cung ứng lợi ích tiềm năng

Blockchain là một xu hướng công nghệ mới đang thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp. Báo cáo thường niên lần thứ 22 (năm 2017) về tình hình thị trường 3PL toàn cầu (www.3plstudy.com) có khảo sát về nhận thức của doanh nghiệp 3PL đối với công nghệ blockchain.

Những người tiên phong

Tháng 11.2016, Walmart công bố hợp tác với các chuyên gia công nghệ và học thuật từ IBM và đại học Tsinghua để truy xuất nguồn gốc thịt lợn tại Trung Quốc – từ chuồng nuôi tới kệ hàng bán. Sử dụng công nghệ blockchain, Walmart sẽ có thể lưu trữ dài hạn các bản ghi điện tử của các giao dịch và truy xuất các sản phẩm thực phẩm từ nơi sản xuất, xuyên suốt chuỗi cung ứng cho tới khách hàng đã mua sản phẩm. Tất cả các thông tin này được nhóm trong một khối thông tin kết nối nhau (blockchain).

Trước đó, từ tháng 9.2016, Maersk đã hợp tác cùng IBM nhằm ứng dụng công nghệ phân phối sổ cái blockchain vào ngành vận tải đường biển. Công nghệ blockchain giúp ngành công nghiệp vận tải biển và hậu cần theo dõi được hồ sơ của hàng triệu chuyến tàu chở container trên khắp thế giới bằng cách số hóa toàn bộ quy trình chuỗi cung ứng. Nhờ đó, blockchain sẽ giúp tăng tính minh bạch, làm cho việc trao đổi thông tin giữa các bên tham gia vào quy trình vận chuyển trở nên dễ dàng hơn.

Mối quan tâm của các doanh nghiệp trong việc áp dụng công nghệ blockchain vào chuỗi cung ứng đang tăng lên, và các công ty từ Maersk đến Walmart đang nắm bắt tiềm năng đến từ việc chuyển giao quyền sở hữu và ghi chép các hoạt động khi các lô hàng di chuyển giữa các doanh nghiệp và trong suốt chuỗi cung ứng.

Lợi ích của blockchain

Bởi vì blockchain có thể theo dõi và kiểm tra các hoạt động trong suốt quá trình sản xuất, vận chuyển và phân phối của một chuỗi cung ứng, nó sẽ giúp loại bỏ nhiều rủi ro và mối quan tâm liên quan đến quá trình di chuyển của sản phẩm.

Trong mỗi bước di chuyển, hay còn gọi là khối (block), blockchain sẽ xác định các bên liên quan, giá, ngày, địa điểm, chất lượng, trạng thái của sản phẩm và bất kỳ thông tin khác liên quan đến quản lý lô hàng và sản phẩm trên các chuyến hàng. Các thông tin này được lưu trữ phân tán trên hàng triệu máy tính, máy chủ có tham gia vào mạng lưới ngang hàng giúp những người trong mạng lưới có thể tìm ra từng sản phẩm với tận nguồn gốc của nguyên vật liệu được sử dụng. Dữ liệu quan trọng có thể được cập nhật theo thời gian thực (real-time), có thể làm giảm nhu cầu đối chiếu với hồ sơ nội bộ của mỗi bên và cho phép mỗi bên trong hệ thống mạng lưới cung ứng có được khả năng hiển thị (visibility) chi tiết về các bước di chuyển và tình trạng của sản phẩm.

Hơn thế nữa, cấu trúc phân quyền của sổ cái làm cho bất kỳ bên nào cũng không thể giữ quyền sở hữu hoặc thao túng dữ liệu. Thông tin được chia sẻ sẽ làm tăng khả năng hiển thị (visibility) và giảm thiểu khả năng xảy ra lỗi của con người. Nó cũng có thể làm giảm đáng kể thời gian trễ, loại bỏ chi phí phát sinh thêm, giảm thiểu sai sót của con người. Tính chính xác và tính trách nhiệm tăng lên của dữ liệu được quản lý trong blockchain có thể mang lại nhiều cơ hội hơn cho việc phân tích dữ liệu để nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng.

Blockchain – một công nghệ đang nổi lên

Công nghệ này đang tiên phong hàng đầu và đang lan rộng dần, nhưng khảo sát của 3plstudy.com cho thấy vẫn còn thiếu nhận thức về việc sử dụng của blockchain.

Phần lớn những công ty tham gia khảo sát khoảng 67% các chủ hàng và 62% các nhà cung cấp dịch vụ 3PL, cho biết họ không biết đủ về blockchain để đánh giá nó vào thời điểm này, như thể hiện trong hình 1.

Những mong đợi về lợi ích tiềm năng của blockchain

Do đang trong giai đoạn mới bắt đầu, hệ sinh thái blockchain cần sự phát triển thêm. Khoảng 81% chủ hàng và 62% 3PL vẫn chưa thảo luận về blockchain (hình 2).

Những mong đợi về lợi ích tiềm năng của blockchain

Tuy nhiên, mối quan tâm đang dần tăng lên, đặc biệt đối với các nhà cung cấp dịch vụ logistics. Trong số 3PL, 30% cho biết họ xem đây là ứng dụng tiềm năng nhưng chưa tham gia so với 16% các chủ hàng. Có nhiều 3PL (khoảng 7%) – đang tích cực tìm kiếm các giải pháp tiềm năng, so với ít hơn 2% các chủ hàng.

Cũng có sự quan tâm ngày càng tăng về công nghệ, điều này có thể sẽ tăng lên khi có nhiều chủ hàng thử nghiệm và chứng minh điều đó. Khảo sát cho thấy khoảng một phần ba các chủ hàng  36%  quan tâm đến các cuộc trò chuyện xung quanh blockchain và muốn 3PL đưa các sáng kiến tiềm năng cho blockchain ra thảo luận.

Trong số các 3PL, 31% muốn 3PL đưa các sáng kiến tiềm năng cho blockchain ra thảo luận; 26% muốn thấy 3PLs sở hữu hoặc hợp tác trong các hoạt động blockchain như thể hiện trong hình 3.

Mức độ quan tâm đến các hoạt động liên quan đến blockchain

Thách thức với blockchain

Có những thách thức với công nghệ, bao gồm cả việc phát triển và quản trị chia sẻ dữ liệu blockchain. Bởi vì blockchain tạo ra một sổ cái có thể truy cập được, nên cần phải có khả năng tương tác lẫn nhau giữa các blockchain tư nhân và công cộng, đòi hỏi phải có các tiêu chuẩn và thỏa thuận.

Cùng với các vấn đề khả năng mở rộng và thiếu các giao thức, sự riêng tư cũng là một trong những mối quan tâm mà công nghệ blockchain phải giải quyết. Chủ hàng và 3PL sẽ phải xác định có bao nhiêu thông tin cần được cung cấp. Trong một số trường hợp, các công ty có thể không muốn cung cấp đầy đủ tính minh bạch của tất cả thông tin cho mọi người trong chuỗi cung ứng.

Thông tin càng nhiều trong chuỗi cung ứng thì càng cần có nhiều trách nhiệm đối với và các công ty có thể xác định họ không muốn mức độ theo dõi chi tiết như vậy. Hơn nữa, công nghệ blockchain tự nó không giải quyết được độ tin cậy của hồ sơ. Blockchain yêu cầu xác minh của bên thứ ba của dữ liệu, mà qua đó phát sinh chi phí bổ sung.

Do những quan ngại nói trên, lợi ích của ứng dụng blockchain vẫn chưa được nhận ra một cách đầy đủ. Tuy nhiên, xu hướng ứng dụng blockchain là rất rõ ràng. Các doanh nghiệp logistics cần quan tâm để có sự chuẩn bị trong tương lai.

Theo: Vietnam Logistics Review