Việt nam (VN) có quy mô dân số lớn và bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Nền kinh tế VN những năm gần đây có nhiều chuyển biến tốt nhưng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn chưa được đẩy lùi và có chiều hướng ngày càng gia tăng.
Tuy kinh tế có tăng trưởng, nhưng tình hình người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp vẫn đang là một thách thức lớn, vấn đề nan giải đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thực trạng thất nghiệp tại VN
Tỷ lệ thất nghiệp Theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I.2016 ước tính là 2,23%, trong đó khu vực thành thị là 2,96%; khu vực nông thôn là 1,87%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15 – 24 tuổi) quý I ước tính là 6,47%, trong đó khu vực thành thị là 9,51%; khu vực nông thôn là 5,35%. Tỷ lệ thất nghiệp của người từ 25 tuổi trở lên quý I là 1,27. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm nay ước tính là 1,77%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,77%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,25%. Đáng chú ý, nhóm lao động trình độ cao tiếp tục khó khăn khi tìm việc làm, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động có trình độ đại học trở lên là 192,5 nghìn người, chiếm 18,1% tổng số người thất nghiệp. Đặc biệt, thống kê báo cáo cũng ghi nhận tình trạng thất nghiệp của thanh niên tiếp tục là vấn đề cần quan tâm. Số giờ làm việc thực tế bình quân của nhóm “lao động thiếu việc làm” là 22,3 giờ/tuần, chỉ bằng 53% so với lao động cả nước. Nhận định về tình hình, các chuyên gia tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá, so với các nước trong khu vực VN không phải là một nước có tỷ lệ thất nghiệp cao, tuy nhiên qua số liệu cung cấp, VN cần quan tâm đến chất lượng, năng suất lao động của người lao động hơn nữa để phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi có xu hướng tăng, cụ thể: Quý IV.2015 là 2,12%, và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi quý I.2016 ước tính là 2,23%.
– Thất nghiệp trong độ tuổi lao động Năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp (trong độ tuổi lao động) chung là 2,08% thấp hơn so với năm 2015 (1.9%) và thấp hơn quý I.2016 (2,23 %). Tỷ lệ thất nghiệp của thành thị cao gấp 2,3 lần của nông thôn và có xu hướng thu hẹp lại (1,6 lần quý I.2016).
– Thất nghiệp thanh niên Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên vẫn còn cao, cho đến quý I.2016 vẫn ở mức cao là 6,47%, đây là thực sự là con số đáng báo động.
– Thiếu việc làm trong độ tuổi lao động.
Trong bảng thống kê được nêu trên thì tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể: từ 2,45% năm 2014 giảm xuống còn 1,77% đầu năm 2016.
Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế Nhận thấy có sự phân chia lao động không đồng đều giữa các khu vực kinh tế. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp chiếm khoảng 45% so với các khu vực còn lại. Qua đó cho thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải quan tâm nhiều hơn đến hai khu vực là công nghiệp – xây dựng và dịch vụ để có thể tạo ra nhiều việc làm hơn cho người lao động và góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp hiện nay.
Quy mô lực lượng lao động có xu hướng tăng chậm làm giảm áp lực việc làm, trong khi nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn khôi phục nên tỷ lệ thất nghiệp biến động không nhiều. Trong khi lao động thiếu việc làm ở mức cao khoảng 1,3 triệu người trong quý I.2016, vấn đề đáng lưu ý đối với thị trường lao động VN là năng suất lao động thấp. Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập giảm sút của người lao động sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng, nếu không có những giải pháp đối phó hiệu quả sẽ tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội, đặc biệt, hiện nay khu vực nông nghiệp, nông thôn không còn là nơi hấp thụ được số lượng người mất việc làm ở thành phố trở về thì nguy cơ bất ổn xã hội càng hiện hữu. Điều này, phần nào được giải thích bởi VN là một nước nông nghiệp, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo (việc làm không bền vững) nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn.
Đâu là nguyên nhân?
Thứ nhất, số lượng sinh viên đầu ra mỗi năm quá nhiều. Hiện tại, VN có hơn 500 trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Việc mở cửa ồ ạt các trường đại học với chất lượng đầu vào thấp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp mỗi năm tăng vọt.
Thứ hai, thực tế vấn đề việc làm ở VN cũng đang gặp khó khăn. Trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng, nhiều DN phải cắt giảm lao động như các công ty chứng khoán, công ty xây dựng…, một số DN giải thể, đóng cửa đã làm mất việc của hàng ngàn lao động.
Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ chính nguồn nhân lực được đào tạo nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc. Sinh viên sau khi tốt nghiệp không đủ năng lực, trình độ đảm nhận các vị trí trong DN, khiến các nhà tuyển dụng từ chối hoặc phải đào tạo lại.
Thứ tư, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cũng là nguyên nhân lớn ảnh hưởng nặng nề đến hiệu quả sử dụng nguồn lao động và kết quả giải quyết công ăn việc làm. Trên tầm vĩ mô chúng ta còn thiếu một hệ thống tương đối các luật lệ chính sách nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và mở mang phát triển việc làm. Ở tầm vĩ mô cơ chế cũ có phần nặng nề hơn. Hàng loạt các quy chế chính sách, các hình thức tổ chức, các chức danh tiêu chuẩn, các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần, các chế độ, các nề nếp lao động, sản xuất, học tập nghiên cứu khoa học nhằm đề cao tinh thần tận tụy, trách nhiệm với công việc, khuyến khích mạnh mẽ tính chủ động tích cực, sáng tạo của con người còn đang thiếu. Tình trạng tổ chức còn chồng chéo, kém hiệu quả, tình trạng trả công, phân phối bình quân bất hợp lý còn phổ biến làm cho hiệu suất làm việc kém.
Thất nghiệp… những hệ luỵ
Số lượng người thất nghiệp tăng cao là do số lượng các DN giải thể tăng cao, dẫn đến có thêm nhiều lao động mất việc làm, mất thu nhập trong lực lượng lao động, gây ảnh hưởng tới tuổi thọ trung bình và cuộc sống gia đình, đời sống của một số bộ phận trong xã hội.
Ngoài ra, người lao động đã hiểu rõ hơn các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chủ động đăng ký thất nghiệp trong thời gian chờ tìm việc làm mới, làm tăng số lao động đăng ký thất nghiệp. Từ đó, xét theo quan điểm của lý thuyết căng thẳng trong nghiên cứu xã hội học tội phạm, khi con người không tìm thấy những phương tiện hợp pháp để thỏa mãn nhu cầu của mình (như nhu cầu có thu nhập để sống) thì họ buộc phải sử dụng đến các phương tiện phi pháp. Đây chính là một trong những nguy cơ làm gia tăng tội phạm trộm cướp, cờ bạc và các tệ nạn khác trong xã hội. Làm xói mòn nếp sống văn hóa, lành mạnh, phá vỡ các mối quan hệ.
Những đề xuất
Trong thời gian tới, để chủ động hội nhập cộng đồng ASEAN, tham gia hiệp định TPP, thực hiện Hiệp định thương mại tự do song phương Việt Nam – EU, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch. Chắc chắn quá trình quốc tế hóa và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, sự tùy thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các nước ngày càng phổ biến. Kinh tế tri thức, công nghệ phát triển mạnh mẽ, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, đòi hỏi chúng ta phải phát triển nguồn nhân lực ngày càng nâng cao về chất lượng, đủ điều kiện để cạnh tranh trên thị trường lao động trong môi trường hội nhập quốc tế cũng là một trong những khâu đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và cả nước. Sau đây là các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề việc làm:
Tạo việc làm phải bảo đảm tính bền vững.
Nghiên cứu đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Tổ chức có hiệu quả công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần tạo việc làm, cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động.
Tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công… Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Phát triển mạnh khu vực dân doanh.
Trước hết là phát triển các DN vừa và nhỏ để nhanh tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản xuất; phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một DN; phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp, đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Nhà nước cùng các DN quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao.
Trình độ lành nghề, trình độ văn hoá đối với lao động trẻ, khoẻ, nhất là ở khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước khi thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động.
Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề).
Cần mở rộng đào tạo và đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khoẻ tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hoá… cho thị trường trong nước và ngoài nước.
Tăng cường kết nối cung – cầu lao động.
Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động (cở sở dữ liệu cung – cầu lao động) và củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức dịch vụ việc làm, nâng tần suất hoạt động của các sàn giao dịch việc làm, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ việc làm công góp phần quan trọng kết nối cungcầu lao động hiệu quả hơn.
Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động bằng việc thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo, đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động theo đúng pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung, cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm được thuận lợi nhất.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu cũng như tình hình kinh tế ở VN hiện nay thì chúng ta có thể thấy nhiều vấn đề cần được quan tâm. Song có lẽ vấn đề cấp thiết nhất hiện nay đó là “Việc làm – thất nghiệp”. Như vậy từ những vấn đề được phân tích ở trên, cũng như tình hình thực tế ở VN hiện nay ta có thể thấy được tầm quan trọng của các nhà quản lý cùng những chính sách thích hợp của họ. Cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do ngành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chất chiến lược và kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.