Công nghiệp thế hệ 4.0: Nắm bắt hay “lỡ chuyến tàu”?

Gần đây, cụm từ “Cách mạng công nghiệp thứ 4”, hay “Công nghiệp thế hệ 4.0” (sau đây gọi tắt là CN 4.0) được nhắc tới khá nhiều trên thế giới, nhưng nội dung của nó thì vẫn khá xa lạ với nhiều người Việt. Nếu không nhanh chóng nhận diện, nắm bắt cơ hội và thích ứng với xu thế phát triển của cuộc cách mạng này ngay từ năm 2017, Việt Nam có nguy cơ “lỡ một chuyến tàu lớn”.

Nhận diện CN 4.0

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nhiều cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1 bắt đầu từ cuối thế kỷ 18, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, rồi động cơ đốt trong, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí và phát triển giao thương. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra từ đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt sử dụng điện năng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 diễn ra vào những thập niên 1960-1990, với sự xuất hiện của chất bán dẫn, các thiết bị điện tử, rồi việc sáng chế ra máy tính và Internet, cung cấp khả năng truyền thông, giám sát và điều chỉnh quy trình sản xuất.

Sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện các công nghệ số, đặc biệt là các hệ thống mạng đã trở nên ngày càng phổ biến, được tích hợp cả về tính năng lẫn phạm vi ứng dụng, làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế – xã hội trên toàn cầu, từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3, chính là cơ sở ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CN 4.0).

Theo GS. Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, tác giả cuốn sách “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, CN 4.0 có sự khác biệt rất lớn và toàn diện so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây. Đó là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, Internet kết nối vạn vật (Internet of Things – IoT) và Internet kết nối các hệ thống (Internet of Systems – IoS).

Đặc trưng của CN 4.0 là hệ thống sản xuất thực – ảo (Cyber Physical Systems – CPS), trong đó các “sản phẩm thông minh” gắn đầy cảm biến báo cho máy móc biết chúng cần được xử lý như thế nào, các quy trình có quyền “tự trị” trong một hệ thống mô-đun phân cấp, các thiết bị nhúng thông minh làm việc với nhau thông qua mạng không dây hoặc “đám mây”. Nói một cách ngắn gọn thì viễn cảnh các nhà máy thông minh trong đó các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định, có vẻ sẽ không còn xa xôi nữa.

CN 4.0 là mảnh đất nảy sinh những công nghệ mới như công nghệ na-nô, in 3D, công nghệ sinh học phân tử, công nghệ di truyền, công nghệ của trí tuệ nhân tạo, internet của vạn vật… Những công nghệ này có tiềm năng kết nối hàng tỷ người trên thế giới, gia tăng đáng kể hiệu quả hoạt động cho các tổ chức, doanh nghiệp, tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay thậm chí khôi phục lại những tổn thất mà các cuộc cách mạng công nghiệp trước gây ra. Vì vậy, chúng sẽ tác động to lớn đến mọi luật lệ, mọi nền kinh tế, mọi ngành công nghiệp, thậm chí thách thức ý niệm của chúng ta về vai trò thực sự của con người.

Thế giới nắm bắt CN 4.0 như thế nào?

CN 4.0 đồng nghĩa với tự động hóa hơn nửa môi trường sản xuất, tạo nên các sản phẩm phong phú hơn với giá thành thấp hơn, đem lại lợi ích cho các bên liên quan. Việc số hóa và nối mạng sản phẩm và dịch vụ hứa hẹn cho phép các công ty cung cấp các dịch vụ mới cho khách hàng và mang lại doanh thu đáng kể.

Các công ty có cơ hội đưa nhà máy sản xuất về lại nước mình, giành lại công việc từ các nước có giá nhân công thấp như Trung Quốc (vốn được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”). Chẳng hạn, hãng giày Adidas, sau hai thập kỷ không sản xuất tại Đức vì giá nhân công đắt đỏ, hiện đang xây dựng nhà máy ở miền Nam nước này, với thành phần lao động chủ yếu là robot. Đối thủ của họ là Nike cũng đang xây dựng một nhà máy hầu như hoàn toàn tự động tại bang Atlanta (Mỹ). Đó là lý do tại sao CN 4.0 đang được chính phủ các nước phương Tây, đặc biệt là Đức, Mỹ và Anh quan tâm.

Năm ngoái, McDonald’s công bố sẽ xây mới thêm 25.000 nhà hàng hoạt động hầu như bằng robot. Tháng 5.2016, Foxconn cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng robot. Tháng 11.2015, Ngân hàng Anh Quốc đưa ra một dự báo còn đáng lo ngại hơn là sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10-20 năm tới tại riêng Mỹ và Anh, tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này.

Công nghệ robot đã thâm nhập vào nhiều lĩnh vực của đời sống và sản xuất. Hầu như robot đã thay thế con người trong dây chuyền lắp ráp sản xuất ô tô, trong nhiều công đoạn của các dây chuyền sản xuất thuốc chữa bệnh, tham gia các quá trình tự động hóa trong nhà máy cũng như trên đồng ruộng, chăm sóc người bệnh…

Trong thế giới mới pha trộn không gian ảo và thực, con người sẽ làm quen với việc cùng robot làm việc. Infineon Technologies đang thử nghiệm sản xuất cộng tác, để robot và người cùng làm việc tại các nhà máy ở Dresden (Đức) và Villach (Áo). Còn tại nhà máy Spartanburg của BMW ở South Carolina (Mỹ), các robot cộng tác đã làm việc bên cạnh công nhân trên dây chuyền lắp ráp mà không hề có một hàng rào cách ly nào.

Đức đặc biệt chú trọng đến CN 4.0 vì ngành sản xuất là xương sống của nền kinh tế nước này. Các công ty công nghiệp Đức như hãng sản xuất ô tô BMW và nhà sản xuất bán dẫn Infineon Technologies vừa đề cập đang đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ để đón đầu cuộc cách mạng công nghiệp mới. Khảo sát của Strategy & và PwC với 235 công ty công nghiệp có trụ sở tại Đức hồi tháng 10.2014 cho thấy, công nghệ CN 4.0 chiếm hơn 50% số vốn đầu tư hoạch định cho giai đoạn 2015-2020, tức là có thể lên đến 40 tỷ EUR mỗi năm. Cũng theo khảo sát này, 85% công ty kỳ vọng sẽ thực hiện công nghệ CN 4.0 ở tất cả các khâu quan trọng vào năm 2020.

Cùng với quá trình phát triển của cảm biến và trí tuệ nhân tạo, khả năng của các phương tiện tự hành cũng được cải thiện với tốc độ nhanh chóng. Người ta dự báo trong khoảng mười năm tới, 10% xe chạy trên đường ở Mỹ sẽ là xe không người lái, 5% sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bằng công nghệ in 3D, và chiếc ô tô đầu tiên sẽ ra đời bằng công nghệ in 3D.

Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Không phải vô cớ mà gần đây CN 4.0 được nhắc đến trong nhiều văn bản của Nhà nước và phát biểu của một số quan chức. CN 4.0 cũng chiếm vị trí quan trọng của một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của ngành Công thương trong năm 2017. Bởi vì, CN 4.0 đang xảy ra rầm rộ và là bước phát triển tất yếu mà nếu chậm chân, VN sẽ lại “lỡ một chuyến tàu lớn”.

Một trong những hệ quả dễ thấy nhất là sức ép đối với những ngành thâm dụng lao động ở VN như may mặc, da giày. Các mô-đun sản xuất tự động và công nghệ in 3D có thể “tước đoạt” lợi thế nhân công rẻ của VN và các thị trường nhập khẩu truyền thống những mặt hàng này như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc có thể mở nhà máy ở nước họ mà không sợ chi phí quá nhiều cho nhân công như Adidas và Nike đã làm. Lúc đó, việc giải quyết việc làm cho một số lượng lớn nhân công trình độ thấp sẽ trở thành một gánh nặng đặt lên nền kinh tế quốc gia.

Chiến lược phát triển công nghiệp của VN trong hơn ba thập kỷ qua, thể hiện rõ ở ba chương trình kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, có vẻ như sẽ không còn phù hợp với bối cảnh của CN 4.0. Một số ngành sản xuất ở VN dựa vào tài nguyên như dầu khí, than đá, quặng, nhiệt điện đang mất dần tính cạnh tranh do sức ép của CN 4.0. Khi robot và tự động hóa lên ngôi, hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là những nhân công trong ngành vận tải, logistics, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo hiểm.

Thực ra, CN 4.0 đang ở giai đoạn đầu, nên các nước gần như “bình đẳng” về cơ hội khi bắt đầu tiếp cận cuộc cách mạng này. Một nước đang phát triển như VN có thể đi thẳng vào nghiên cứu, ứng dụng hoặc thu hút đầu tư công nghệ mới do các công nghệ này không phụ thuộc vào công nghệ cũ, từ đó có thể rút ngắn khoảng cách phát triển. Hơn nữa, mặc dù VN đang có mức thu nhập trung bình, vẫn có một số lĩnh vực người dân được thụ hưởng những thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại, như việc sử dụng điện thoại thông minh và kết nối mạng Internet khá phổ biến và tăng trưởng nhanh.

Để nắm bắt cơ hội và thích ứng với xu thế phát triển của CN 4.0, Chính phủ cần thiết kế ngay các chương trình mục tiêu công nghiệp phù hợp để tiếp thu những công nghệ mới, xây dựng các chính sách dựa trên cách tiếp cận mới về xu hướng thay đổi khoa học – công nghệ đang diễn ra. Mặt khác, các cơ sở đào tạo nghề và đại học sẽ gặp khó khăn rất lớn trong việc cung ứng nguồn nhân lực cho thị trường lao động khó dự đoán và thay đổi chóng mặt, nếu không kịp thời thay đổi cách tiếp cận giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp của người học. Trong bối cảnh cách mạng CN 4.0 đang ập tới như đã phân tích ở trên, đã đến lúc giới đại học buộc phải lựa chọn thay đổi triệt để nếu không muốn trở thành “kẻ bên lề”.

Các công ty nội địa cũng đang đứng trước thách thức phải linh động điều chỉnh sản phẩm theo nhu cầu người tiêu dùng, tích hợp các công nghệ tiên tiến, hợp lý hóa quy trình sản xuất, giảm thời gian giao hàng, rút ngắn vòng đời sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Để phát triển, lãnh đạo các tổ chức kinh doanh sẽ phải chủ động đưa tư duy của mình thoát khỏi lối mòn với những ý tưởng, những hệ thống họ thậm chí chưa bao giờ nghĩ tới. Họ cũng sẽ phải đặt câu hỏi về mọi thứ, từ việc suy nghĩ lại các chiến lược, các mô hình kinh doanh cho đến các quyết định đầu tư vào đào tạo nhân lực hay các hoạt động nghiên cứu phát triển.

Theo: Vietnam Logistics Review.

TS. Bùi Văn Danh

Tản mạn bên Hồ Gươm: Quản trị logistics hay chuỗi cung ứng?

 Lâu lắm tôi mới ra Hà Nội, lại gặp ngay đợt lạnh đầu mùa. Trời chỉ se se lạnh, không khí khô mát thật dễ chịu… Buổi sáng, ngồi uống cà phê ngoài vỉa hè đầu phố Bảo Khánh nhìn ra Hồ Gươm, cảnh trông thật đẹp. Nước hồ xanh biếc gợn sóng lăn tăn soi bóng Tháp Rùa một bên và Cầu Thê Húc cùng đền Ngọc Sơn một bên. Hàng cây ven bờ che khuất cảnh xe cộ quanh hồ chỉ nhìn rõ cảnh người đi dạo, tập thể dục ven hồ. Thật thanh bình.

Tôi rủ ông Quang, một người bạn cũ ra cùng uống cà phê. Ông Quang cũng trạc tuổi tôi, nghĩa là cũng thuộc lớp người “xưa nay hiếm”, là người gốc Hà Nội. Hồi còn đi học ông rất đẹp trai, trông như tây, nên bạn bè gọi ông là Quang Vante. Gặp nhau thật vui, ông trách tôi sao lâu thế không ra Hà Nội? Tôi rời Hà Nội vào sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh cũng đã hơn 30 năm. Trước kia khi còn đi làm tôi vẫn thường xuyên ra Hà Nội, từ ngày nghỉ hưu cũng ít đi lại, nên bạn bè cũng lâu chưa gặp nhau. Ông Quang thuộc loại người “sống mãi với thủ đô”, không rời Hà Nội, nên gần 70 năm qua ông chứng kiến bao thay đổi ở Hà Nội. Tôi thú thực là nhiều nơi quen thuộc đã thay đổi khó nhận ra, thí dụ như ngay ngã tư Khâm Thiên trở nên nhỏ hẹp khi các nhà mới xây cao tầng che khuất, chứ chưa nói tới ngã tư Sở hay các vùng đô thị mới mới thì tôi chịu, hoàn toàn không nhận ra. Ông Quang cũng thú thực là các khu mới ông cũng không nhận biết được.

Ông Quang nguyên là cán bộ giao nhận ngoại thương cũng đã nghỉ hưu gần chục năm nay. Trước kia khi còn ở Hà Nội chúng tôi hay nói chuyện với nhau về chuyên môn. Ông Quang là người ham hiểu biết và khá uyên bác trong lĩnh vực chuyên môn, nên trao đổi với ông tôi thường nhận được nhiều điều mới và lý thú.

Sau một hồi nhắc lại bạn bè cũ hồi ấu thơ và thuở cắp sách đến trường chúng tôi thấy thời gian trôi thật nhanh, và cũng mừng là còn khỏe mạnh và gặp nhau thế này.

Ông hỏi tôi còn làm gì không hay nghỉ ngơi hoàn toàn rồi. Tôi thành thật bảo có tham gia một vài việc với một số trường. Ông Quang tỏ ra vui và bảo: “Tuổi anh em mình cũng phải hoạt động chứ không làm gì thì hỏng hết”. Và ông chợt hỏi tôi: “Vậy chắc là ông có quan tâm tới logistics?” Tôi nhận là có quan tâm và cũng thường xuyên cập nhật sự phát triển của ngành này. Ông hào hứng hẳn lên và sôi nổi nói: “Thế là chúng mình có thêm một mối quan tâm chung”. Là cán bộ quản lý ngành kho vận ngoại thương nhiều năm cho đến lúc về hưu, và thật ra ông gắn bó với logistics từ lâu rồi, chắc ông có nhiều suy nghĩ trăn trở về lĩnh vực này. Tôi bèn gợi chuyện để ông nói.

“Hồi đầu những năm 1990 ở nước ta bỗng sôi nổi về logistics. Ông Quang nói, khi đó mình còn đang làm việc nên phải tìm hiểu kỹ xem logistics là gì. Thoạt đầu mình thấy nó vẫn chỉ là chuyện giao nhận vận chuyển mà mình làm bao năm nay rồi. Nhưng mình thắc mắc thế tại sao bây giờ lại ồn ào thế?”

Nhấp một ngụm cà phê ông nói tiếp: “Thế là mình tìm các tài liệu để đọc, những tài liệu như Contemporary Logistics, và kể cả các giáo trình khác về logistics mình tìm và đọc hết. Khi đó mình mới ngộ ra rằng hệ thống lưu thông phân phối đã thay đổi do quan niệm về dự trữ sản phẩm hàng hóa đã thay đổi từ chỗ phải có sẵn dự trữ sang khi nào cần thì có ngay, tiếng Anh là Just in Time (JIT). Mặt khác là người ta xem xét toàn hệ thống, thể hiện là phải xét giá thành toàn bộ, chứ không xem xét từng khúc nữa. Thế là hệ thống buôn bán thay đổi theo nhằm đáp ứng yêu cầu mới kéo theo anh kho vận ngoại thương phải thay đổi theo. Ban đầu mình cũng nghĩ đơn giản là thế thì bây giờ kho vận đổi thành logistics và làm theo yêu cầu mới là đủ. Và khi đó hàng loạt các công ty kho vận, kiểm đếm,… trong thời gian ngắn biến thành các công ty logistics theo kiểu bình mới rượu cũ. Và tình hình đến giờ cũng chưa thay đổi, trừ việc áp dụng một số phương tiện thiết bị mới vào mà thôi.”

Nghe đến đây tôi chỉ nghĩ chắc ông bạn tôi đang buồn nhớ lại thời mình còn làm, nên tôi an ủi ông: “Ngành của anh giờ cũng thay đổi nhiều lắm rồi, nhất là bây giờ chủ yếu vận chuyển bằng container nên khác trước nhiều đấy chứ.”

Nghe vậy ông Quang bỗng nhìn tôi bằng ánh mắt xa lạ, và hỏi: “Ông cũng nghĩ thế à?”

Biết là có điều gì mới từ ông bạn, nên tôi hỏi một câu có tính gợi chuyện: “Sao, ý anh là thế nào?”

“Việc các công ty giao nhận, kho vận đổi tên thành các công ty logistics là không sai. Vì chính các công ty này cung cấp các dịch vụ logistics mà. Nhưng cái cốt lõi của cuộc cách mạng này là quản trị logistics, Logistics Management, đó là cái mới mà chưa ai ở ta làm.”

Ông nói tiếp: “Người ta giải quyết vấn đề lưu thông theo quan điểm hệ thống, quản trị logistics giúp cho quá trình này đáp ứng yêu cầu của chủ hàng. Chủ hàng sẽ chỉ quan tâm tới kết quả toàn bộ, mà không phải từng khúc một. Quản trị logistics phải làm việc này.”

“Cuối thế kỉ XX nhiều hội đồng logistics cấp quốc gia được thành lập, nổi tiếng như CLM (Council of Logistics Management) của Mỹ, hay CALM (Canadian Association of Logistics Management) của Canada,…

“Logistics mô tả toàn bộ quá trình vật tư, hàng hóa dịch chuyển từ đầu vào (inbound logistics), đi qua tới đầu ra (outbound logistics) của một công ty, nhà máy…

“Chắc ông còn nhớ khi mới ra đời lý thuyết quản trị logistics có nói bên cạnh dòng hàng hóa vật chất còn dòng thông tin và dòng giá trị đi kèm.”

“Đến đầu thế kỉ XXI Hội đồng Quản trị Logistics của Mỹ đã đổi thành Hội đồng Quản trị Chuỗi cung ứng chuyên nghiệp CSCMP (Council of Supply Chain Management Professionals). Và các nhà kinh tế đã khẳng định quản trị chuỗi cung ứng là bước phát triển tiếp theo của quản trị logistics. Như vậy là về lý thuyết có một bước chuyển mới rồi.”

“Quản trị chuỗi cung ứng là một quan niệm rộng hơn logistics vì nó giải quyết việc quản trị cả dòng vật chất và các quan hệ giữa các dòng liên quan đi kèm từ điểm đầu là các nguyên vật liệu, xuyên suốt đến tận điểm cuối là người tiêu dùng cuối cùng.”

Dừng lại châm điếu thuốc, hút một lúc và chầm chậm nhả khói, ông Quang như cố gắng tập trung vào mạch suy nghĩ. Tôi bảo ông: “Đúng là quản trị logistics là quản trị dòng hàng hóa, vật chất, nhưng đi kèm với nó là biết bao vấn đề liên quan, bao mối quan hệ quanh nó. Nếu chỉ dừng ở dòng logistics hạn chế trong một đơn vị thì thật chưa đủ.”

Như được nhắc, ông Quang dụi điếu thuốc và nói tiếp: “Xã hội phát triển, bây giờ biết bao vấn đề được đặt ra như môi trường, an toàn vệ sinh, bảo hộ người lao động,… khiến hàng hóa lưu thông cần xử lý nhiều vấn đề. Các nhà kinh doanh bây giờ không chỉ dừng ở việc được cung cấp nguyên vật liệu, hàng hóa, mà còn phải truy xét đến nguồn gốc hàng hóa được làm thế nào, có đảm bảo các tiêu chuẩn ngày càng rộng không. Thí dụ ngay con cá đem xuất khẩu, khách hàng còn yêu cầu được biết cá nuôi thế nào, có đảm bảo vệ sinh không, cho cá ăn thức ăn gì,… Nghĩa là chuỗi đã dài ra, không chỉ dừng ở mức quan hệ người mua – người bán thông thường. Nó không chỉ dừng ở trong phạm vi một công ty, mà có thể là một chuỗi các công ty, tổ chức và phải chi tiết hơn các quan hệ kẻ mua – người bán truyền thống”.

“Thực ra là một loạt các kênh khác đi cùng, tương tác với nhau, chứ không chỉ một kênh logistics. Có người gọi các kênh khác này là các kênh marketing.

“Nói đến quản trị chuỗi cung ứng phải xét toàn bộ các kênh trong chuỗi, trong đó có kênh logistics và tương tác, quan hệ của các kênh đó. Có thể kể một vài kênh, ngoài kênh logistics trong chuỗi cung ứng như kênh tài chính, kênh đàm phán, kênh chủ sở hữu,… Các kênh này quan hệ, tương tác với nhau mới thúc đẩy dòng vật chất lưu thông.

“Có thể nói một cách tổng quát thế này: Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động lên kế hoạch và quản trị liên quan đến nguồn cung ứng, thầu, chuyển đổi và các hoạt động quản trị logistics. Một điều rất quan trọng là nó bao gồm sự phối hợp, liên kết các kênh đối tác như bên cung cấp, bên trung gian, nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba và khách hàng.”

Tôi cố gặng hỏi ông Quang về băn khoăn của ông về thực trạng logistics ở nước ta?

Ông trả lời ngay: “Ta mới chỉ cố gắng để trở thành người cung cấp dịch vụ logistics tốt mà thôi. Chúng ta chưa làm được việc quản trị logistics và bây giờ nó là quản trị chuỗi cung ứng. Đây mới là việc làm đem lại giá trị gia tăng cao. Việc này vẫn nằm trong tay các công ty nước ngoài.”

Nắng bắt đầu lên. Cái nắng hanh vàng như mật ong bắt đầu phủ lên hàng cây ven hồ khiến lá cây sáng lấp lánh. Gió hanh se se lạnh.

Ông Quang bảo tôi: “Thôi xếp chuyện này lại. Tôi với ông rủ mấy đứa bạn cũ lên Hồ Tây uống bia. Đầu đường Văn Cao mới có quán bia ngồi được lắm!”…

Theo: Vietnam Logistics Review.

 

Nghị định 160/2016/NĐ-CP tạo thuận lợi cho hoạt động logistics

Những ngày đầu Xuân Đinh Dậu này, ngành dịch vụ logistics Việt Nam đón một tin vui là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 160/2016/NĐ-CP, ngày 29.11.2016 về điều kiện kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển và dịch vụ lai dắt tàu biển. Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 01.7.2017 và thay thế cho Nghị định số 30/2014/NĐ-CP, ngày 14.4.2014 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển và dịch vụ hỗ trợ vận tải biển. 

Mục đích của Nghị định số 160/2016/NĐ-CP ra đời nhằm quy định chi tiết những điều khoản có liên quan của Bộ luật Hàng hải Việt Nam, 2015, có hiệu lực từ ngày 01.7.2017. Luật Đầu tư, 2014, có hiệu lực từ ngày 01.7.2015 quy định vận tải biển là một ngành kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, Nghị định đã quy định rõ ràng hơn các điều kiện kinh doanh về tổ chức bộ máy, về tài chính và về nhân lực so với Nghị định 30/2014/NĐ-CP và phù hợp với tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước ta khi thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam về dịch vụ vận tải biển trong ASEAN và WTO, tiến tới thực hiện các cam kết trong TPP và các FTA thế hệ mới. Từ đây, sẽ tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch và bình đẳng cho các doanh nghiệp (DN) kinh doanh dịch vụ vận tải biển trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam (VN).

1. Về điều kiện kinh doanh vận tải biển:

Nghị định nêu rõ điều kiện đối với DN VN kinh doanh vận tải biển quốc tế và kinh doanh vận tải nội địa, điều kiện đối với tổ chức nước ngoài tham gia vận chuyển nội địa bằng tàu thuyền mang cờ quốc tịch VN.

Các điều kiện về tổ chức bộ máy đối với DN VN kinh doanh vận tải biển quốc tế phải có bộ phận quản lý an toàn và an ninh hàng hải theo ISM Code và bộ phận quản lý hoạt động kinh doanh, khai thác vận tải biển, bộ phận thực hiện công tác pháp chế. Điều kiện về tài chính phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đảm bảo nghĩa vụ của chủ tàu đối với thuyền viên với mức bảo lãnh tối thiểu là 5 tỷ đồng VN. Điều kiện này tạo thuận lợi hơn cho DN so với điều kiện quy định trong Nghị định 30/2014/NĐ-CP đòi hỏi “Có vốn hoặc tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ đồng nếu kinh doanh vận tải biển quốc tế và 5 tỷ đồng nếu kinh doanh vận tải biển nội địa”. Điều kiện về tàu thuyền phải có tối thiểu một tàu biển phù hợp về quy chuẩn kỹ thuật. Qua đó nâng cao chất lượng kinh doanh và phục vụ của DN. Điều kiện về nhân lực cũng được quy định rõ hơn về yêu cầu cho mỗi bộ phận quản lý, kinh doanh của DN và thuyền viên hoạt động trên tàu biển.

Điều kiện đối với DN kinh doanh vận tải biển nội địa yêu cầu phải có bộ phận quản lý hoạt động kinh doanh, khai thác vận tải biển. Điều kiện về tài chính phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đảm bảo nghĩa vụ của chủ tàu đối với thuyền viên với mức bảo lãnh tối thiểu là 500 triệu VNĐ. Điều kiện tàu thuyền phải có tối thiểu một tàu biển phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật. Nghị định cũng quy định rõ ràng điều kiện về nhân lực làm việc trên bờ và thuyền viên.

Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh vận tải biển, cấp lại Giấy chứng nhận, thu hồi Giấy chứng nhận cũng được nêu rõ và đơn giản hơn theo hướng tạo thuận lợi cho DN.

2. Về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển:

Nghị định vẫn giữ quy định trường hợp DN có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển, tỷ lệ phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của DN. Nghị định quy định nhân viên đại lý tàu biển phải là công dân VN và được cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ chuyên môn về đại lý tàu biển. Đây là điểm cần được chú ý.

3. Về điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại VN:

Trường hợp DN có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển, tỷ lệ phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của DN. DN kinh doanh phải có tối thiểu một tàu lai dắt và thuyền viên làm việc trên tàu phải là thuyền viên VN. Nghị định lần này quy định rõ điều kiện cho phép tổ chức nước ngoài sử dụng tàu biển mang cờ quốc tịch nước ngoài để kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại VN khi tàu lai dắt mang quốc tịch VN không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định. Nghị định cũng quy định về điều kiện an toàn, an ninh hàng hải và bảo vệ môi trường, thuyền viên phải có chứng chỉ chuyên môn, phải ký hợp đồng lai dắt và tổ chức nước ngoài phải có chi nhánh hoặc văn phòng đại diện hoặc DN lai dắt VN được ủy quyền tại VN.

Nghị định lần này có quy định rõ điều kiện đối với tổ chức nước ngoài tham gia vận chuyển nội địa bằng tàu thuyền mang cờ quốc tịch VN. Đây là điểm mới. Tổ chức nước ngoài tham gia vận tải nội địa (cabotage) bằng tàu biển mang cờ VN phải thành lập DN liên doanh theo quy định, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của DN. Thuyền viên nước ngoài làm việc trên tàu không vượt quá 1/3 định biên, thuyền trưởng hoặc thuyền phó nhất phải là công dân VN…

Rõ ràng là các DN kinh doanh dịch vụ vận tải biển trong nước, các DN kinh doanh dịch vụ logistics và các nhà đầu tư nước ngoài rất phấn khởi đón nhận Nghị định này của Chính phủ VN.

Nguyễn Tương
Theo:  Vietnam Logistics Review.

Khai trương tàu cao tốc mới TP.HCM – Vũng Tàu

Ngày 10-2, Công ty Cổ phần du lịch dầu khí Thái Bình Dương đưa vào hoạt động tàu cao tốc mới tuyến TP. Hồ Chí Minh – Vùng Tàu.

Khai trương tàu cao tốc mới TP.HCM - Vũng Tàu
 Tàu cao tốc Pacific Express chạy tuyến TP.HCM – Vũng Tàu do công ty Cổ phần du lịch dầu khí

Thái Bình Dương vừa đưa vào hoạt động – Ảnh: Chế Thân

Tàu cao tốc này xuất phát từ bến Nhà Rồng TP.HCM theo tuyến sông Sài Gòn, Lòng Tàu đến biển Vũng Tàu.

Việc đưa hai chiếc tàu cao tốc mới này vào hoạt động đáp ứng nhu cầu đi lại của du khách bằng đường thủy, sau khi dừng hoạt động 4 chiếc tàu cao tốc cánh ngầm chạy tuyến TP.HCM-Vũng Tàu ngày 31-12-2016 vì hết niên hạn sử dụng.

Ông Nguyễn Thanh Bình, giám đốc Công ty Cổ phần du lịch dầu khí Thái Bình Dương (đơn vị đầu tư 14 tỉ đồng đóng mới 2 tàu cao tốc trên) cho biết mỗi tàu có sức chở khoảng 40 hành khách với thời gian hành trình từ 1 giờ 20 phút đến 1 giờ 40 phút , giá vé 200.000 đồng/người.

Sở Giao thông vận tải TP.HCM và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết đã chấp thuận việc đưa các tàu cao tốc mới vào hoạt động, góp phần đa dạng hình thức vận tải hành khách đi du lịch bằng đường thủy và giảm tải cho đường bộ.

Khai trương tàu cao tốc mới TP.HCM - Vũng Tàu
Du khách nước ngoài rất hứng thú với loại tàu cao tốc này vì tính tiện lợi và nhanh chóng

 

Khai trương tàu cao tốc mới TP.HCM - Vũng Tàu
Việc đưa tuyến tàu cao tốc này vào hoạt động đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và du khách đi du lịch bằng đường thủy – Ảnh: Chế Thân

Theo: tuoitre.vn

[Infographics] Các thị trường xuất khẩu, nhập khẩu chính của Việt Nam năm 2016

Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu năm 2016 của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở khu vực châu Á. Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết 12 tháng/2016 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt hơn 350,74 tỷ USD, tăng 7,1%, tương ứng tăng gần 23,16 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.

Theo: baohaiquan.vn

Hải quan Đồng Nai – Hoàn thành vượt chỉ tiêu pháp lệnh được giao

Sáng 16.01.2017, Cục Hải quan Đồng Nai (HQĐN) đã làm lễ tổng kết hoạt động thu ngân sách trong năm 2016 với kết quả vượt chỉ tiêu 11,7%.

Trong năm 2016, Cục HQĐN đã có những chỉ đạo kịp thời và đưa ra những giải pháp thiết thực, cùng với sự nỗ lực đoàn kết một lòng của toàn thể 395 cán bộ, công chức, nhân viên của đơn vị; nhìn chung đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao với kết quả thu ngân sách vượt chỉ tiêu pháp lệnh 11,7% và đạt chỉ tiêu phấn đấu, và đạt mức 16.200 tỷ đồng so với chỉ tiêu được giao là 14.500 tỷ đồng.

 Ông Lê Văn Danh – Cục trưởng Cục HQĐN nhận bằng khen của Bộ Tài chính

Theo đó, Số lượng doanh nghiệp làm thủ tục HQ tăng 11%, kim ngạch hàng hóa XNK tăng 9% so với cùng kỳ và lần đầu tiên vượt mức 30 tỉ USD, số lượng tờ khai HQ vượt mức 1 triệu tờ khai. Hệ thống thông quan tự động tờ khai ổn định, không xảy ra sự cố. Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ doanh nghiệp qua các kỳ Hội nghị đối thoại, thực hiện kết nối HQ – DN qua hệ thống dữ liệu điện tử, tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa theo Nghị quyết 19/2016/NQ-CP ngày 26/04/2016 của Chính phủ. Công tác Đảng, đoàn thể, công tác chăm lo đời sống công chức, người lao động phát huy hiệu quả. Nội bộ đoàn kết, xây dựng cơ quan ổn định, phát triển, phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Các chỉ tiêu nổi bật về số thu NSNN, lượng kim ngạch, tờ khai, lượng doanh nghiệp nêu trên là điểm sáng trong công tác năm 2016 của Cục HQĐN. Kết quả có được nhờ sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ Tài chính, ngành Hải quan, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự năng động sáng tạo trong công tác thu hút doanh nghiệp làm thủ tục HQ trên địa bàn quản lý của HQĐN. Trong số 16.208 tỉ đồng thu NSNN, đã có hơn 3.000 tỉ đồng thu từ công tác vận động doanh nghiệp tăng cường XNK, làm thủ tục tại HQĐN.

Công tác hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục là hoạt động ưu tiên của Cục Hải quan Đồng Nai qua việc tập trung tối đa nguồn kinh phí đầu tư phương tiện, đầu tư nguồn nhân lực nhằm phục vụ công việc, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK trên địa bàn. Chủ động đối thoại, nắm bắt những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp và nhanh chóng hỗ trợ, kiến nghị các cấp ngành tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp.

Chương trình công tác năm 2017

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hoá Hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách năm 2017 do Bộ Tài chính giao theo Quyết định số 2577/QĐ-BTC ngày 29/11/2016 là 15.200 tỷ đồng. Trong đó: tỉnh Đồng Nai 14.780 tỷ đồng, tỉnh Bình Thuận 420 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến tại Hội nghị

Tiếp tục vận hành trang website và hoàn thiện hơn các tính năng nhằm đem lại nhiều tiện ích hơn về nội dung và thuận lợi hơn về sử dụng cho người truy cập. Tăng cường mối quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp, đồng hành cùng doanh nghiệp, kịp thời hướng dẫn, xử lý các khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp với các hoạt động như:

Tổ chức các Hội nghị đối thoại doanh nghiệp theo ngành nghề, quốc gia, vùng lãnh thổ… Tổ chức Hội nghị tập huấn, triển khai các văn bản mới quan trọng: Luật thuế XNK sửa đổi, các văn bản hướng dẫn thi hành… cho cán bộ công chức và doanh nghiệp. Duy trì tuyên truyền chính sách pháp luật trên chuyên mục “Hải quan Đồng Nai đồng hành cùng Doanh nghiệp” trên báo Đồng Nai, báo Bình Thuận, Đài PTTH Đồng Nai, chuyên mục “Tư vấn thủ tục Hải quan” trên Website của HQĐN.

Tập thể cán bộ chủ chốt Cục HQĐN nhận bằng khen của Bộ Tài chính

Tiếp tục phát triển Hệ thống trao đổi thông tin Hải quan – Doanh nghiệp (DNaCustoms-Info) cho các doanh nghiệp XNK nhằm tạo kênh trao đổi thông tin trực tuyến, kịp thời, hiệu quả giữa cơ quan HQ với các doanh nghiệp. Tiếp tục vận hành có hiệu quả hệ thống VNACCS/VCIS góp ý kiến với Tổng cục Hải quan để hệ thống ngày càng hoàn thiện, thuận lợi cho doanh nghiệp, quản lý tốt, chặt chẻ cho cơ quan Hải quan.

Tổ chức thực hiện quy chế kiểm soát nội bộ, quy chế đường dây nóng, quy chế trực ban để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro qua kiểm soát tỷ lệ phân luồng (xanh  ≥ 70%, vàng ≤ 24%,  đỏ ≤ 6%), tăng tỷ lệ phát hiện vi phạm.

Mỹ Duyên
Theo:  Vietnam Logistics Review.

Giải bài toán thất nghiệp tại Việt Nam bằng cách nào?

Việt nam (VN) có quy mô dân số lớn và bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Nền kinh tế VN những năm gần đây có nhiều chuyển biến tốt nhưng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn chưa được đẩy lùi và có chiều hướng ngày càng gia tăng.

Tuy kinh tế có tăng trưởng, nhưng tình hình người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp vẫn đang là một thách thức lớn, vấn đề nan giải đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

Thực trạng thất nghiệp tại VN

Tỷ lệ thất nghiệp Theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I.2016 ước tính là 2,23%, trong đó khu vực thành thị là 2,96%; khu vực nông thôn là 1,87%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15 – 24 tuổi) quý I ước tính là 6,47%, trong đó khu vực thành thị là 9,51%; khu vực nông thôn là 5,35%. Tỷ lệ thất nghiệp của người từ 25 tuổi trở lên quý I là 1,27. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm nay ước tính là 1,77%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,77%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,25%. Đáng chú ý, nhóm lao động trình độ cao tiếp tục khó khăn khi tìm việc làm, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động có trình độ đại học trở lên là 192,5 nghìn người, chiếm 18,1% tổng số người thất nghiệp. Đặc biệt, thống kê báo cáo cũng ghi nhận tình trạng thất nghiệp của thanh niên tiếp tục là vấn đề cần quan tâm. Số giờ làm việc thực tế bình quân của nhóm “lao động thiếu việc làm” là 22,3 giờ/tuần, chỉ bằng 53% so với lao động cả nước. Nhận định về tình hình, các chuyên gia tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá, so với các nước trong khu vực VN không phải là một nước có tỷ lệ thất nghiệp cao, tuy nhiên qua số liệu cung cấp, VN cần quan tâm đến chất lượng, năng suất lao động của người lao động hơn nữa để phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường lao động.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi có xu hướng tăng, cụ thể: Quý IV.2015 là 2,12%, và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi quý I.2016 ước tính là 2,23%.

– Thất nghiệp trong độ tuổi lao động Năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp (trong độ tuổi lao động) chung là 2,08% thấp hơn so với năm 2015 (1.9%) và thấp hơn quý I.2016 (2,23 %). Tỷ lệ thất nghiệp của thành thị cao gấp 2,3 lần của nông thôn và có xu hướng thu hẹp lại (1,6 lần quý I.2016).

– Thất nghiệp thanh niên Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên vẫn còn cao, cho đến quý I.2016 vẫn ở mức cao là 6,47%, đây là thực sự là con số đáng báo động.

– Thiếu việc làm trong độ tuổi lao động.


Trong bảng thống kê được nêu trên thì tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể: từ 2,45% năm 2014 giảm xuống còn 1,77% đầu năm 2016.

Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế Nhận thấy có sự phân chia lao động không đồng đều giữa các khu vực kinh tế. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp chiếm khoảng 45% so với các khu vực còn lại. Qua đó cho thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải quan tâm nhiều hơn đến hai khu vực là công nghiệp – xây dựng và dịch vụ để có thể tạo ra nhiều việc làm hơn cho người lao động và góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp hiện nay.

Quy mô lực lượng lao động có xu hướng tăng chậm làm giảm áp lực việc làm, trong khi nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn khôi phục nên tỷ lệ thất nghiệp biến động không nhiều. Trong khi lao động thiếu việc làm ở mức cao khoảng 1,3 triệu người trong quý I.2016, vấn đề đáng lưu ý đối với thị trường lao động VN là năng suất lao động thấp. Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập giảm sút của người lao động sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng, nếu không có những giải pháp đối phó hiệu quả sẽ tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội, đặc biệt, hiện nay khu vực nông nghiệp, nông thôn không còn là nơi hấp thụ được số lượng người mất việc làm ở thành phố trở về thì nguy cơ bất ổn xã hội càng hiện hữu. Điều này, phần nào được giải thích bởi VN là một nước nông nghiệp, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo (việc làm không bền vững) nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn.

Đâu là nguyên nhân?

Thứ nhất, số lượng sinh viên đầu ra mỗi năm quá nhiều. Hiện tại, VN có hơn 500 trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Việc mở cửa ồ ạt các trường đại học với chất lượng đầu vào thấp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp mỗi năm tăng vọt.

Thứ hai, thực tế vấn đề việc làm ở VN cũng đang gặp khó khăn. Trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng, nhiều DN phải cắt giảm lao động như các công ty chứng khoán, công ty xây dựng…, một số DN giải thể, đóng cửa đã làm mất việc của hàng ngàn lao động.

Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ chính nguồn nhân lực được đào tạo nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc. Sinh viên sau khi tốt nghiệp không đủ năng lực, trình độ đảm nhận các vị trí trong DN, khiến các nhà tuyển dụng từ chối hoặc phải đào tạo lại.

Thứ tư, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cũng là nguyên nhân lớn ảnh hưởng nặng nề đến hiệu quả sử dụng nguồn lao động và kết quả giải quyết công ăn việc làm. Trên tầm vĩ mô chúng ta còn thiếu một hệ thống tương đối các luật lệ chính sách nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và mở mang phát triển việc làm. Ở tầm vĩ mô cơ chế cũ có phần nặng nề hơn. Hàng loạt các quy chế chính sách, các hình thức tổ chức, các chức danh tiêu chuẩn, các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần, các chế độ, các nề nếp lao động, sản xuất, học tập nghiên cứu khoa học nhằm đề cao tinh thần tận tụy, trách nhiệm với công việc, khuyến khích mạnh mẽ tính chủ động tích cực, sáng tạo của con người còn đang thiếu. Tình trạng tổ chức còn chồng chéo, kém hiệu quả, tình trạng trả công, phân phối bình quân bất hợp lý còn phổ biến làm cho hiệu suất làm việc kém.

Thất nghiệp… những hệ luỵ

Số lượng người thất nghiệp tăng cao là do số lượng các DN giải thể tăng cao, dẫn đến có thêm nhiều lao động mất việc làm, mất thu nhập trong lực lượng lao động, gây ảnh hưởng tới tuổi thọ trung bình và cuộc sống gia đình, đời sống của một số bộ phận trong xã hội.

Ngoài ra, người lao động đã hiểu rõ hơn các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chủ động đăng ký thất nghiệp trong thời gian chờ tìm việc làm mới, làm tăng số lao động đăng ký thất nghiệp. Từ đó, xét theo quan điểm của lý thuyết căng thẳng trong nghiên cứu xã hội học tội phạm, khi con người không tìm thấy những phương tiện hợp pháp để thỏa mãn nhu cầu của mình (như nhu cầu có thu nhập để sống) thì họ buộc phải sử dụng đến các phương tiện phi pháp. Đây chính là một trong những nguy cơ làm gia tăng tội phạm trộm cướp, cờ bạc và các tệ nạn khác trong xã hội. Làm xói mòn nếp sống văn hóa, lành mạnh, phá vỡ các mối quan hệ.

Những đề xuất

Trong thời gian tới, để chủ động hội nhập cộng đồng ASEAN, tham gia hiệp định TPP, thực hiện Hiệp định thương mại tự do song phương Việt Nam – EU, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch. Chắc chắn quá trình quốc tế hóa và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, sự tùy thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các nước ngày càng phổ biến. Kinh tế tri thức, công nghệ phát triển mạnh mẽ, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, đòi hỏi chúng ta phải phát triển nguồn nhân lực ngày càng nâng cao về chất lượng, đủ điều kiện để cạnh tranh trên thị trường lao động trong môi trường hội nhập quốc tế cũng là một trong những khâu đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và cả nước. Sau đây là các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề việc làm:

Tạo việc làm phải bảo đảm tính bền vững.

Nghiên cứu đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Tổ chức có hiệu quả công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần tạo việc làm, cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động.

Tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công… Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.

Phát triển mạnh khu vực dân doanh.

Trước hết là phát triển các DN vừa và nhỏ để nhanh tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản xuất; phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một DN; phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp, đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.

Nhà nước cùng các DN quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao.

Trình độ lành nghề, trình độ văn hoá đối với lao động trẻ, khoẻ, nhất là ở khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.

Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước khi thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động.

Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề).

Cần mở rộng đào tạo và đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khoẻ tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hoá… cho thị trường trong nước và ngoài nước.

Tăng cường kết nối cung – cầu lao động.

Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động (cở sở dữ liệu cung – cầu lao động) và củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức dịch vụ việc làm, nâng tần suất hoạt động của các sàn giao dịch việc làm, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ việc làm công góp phần quan trọng kết nối cungcầu lao động hiệu quả hơn.

Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động bằng việc thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo, đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động theo đúng pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung, cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm được thuận lợi nhất.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu cũng như tình hình kinh tế ở VN hiện nay thì chúng ta có thể thấy nhiều vấn đề cần được quan tâm. Song có lẽ vấn đề cấp thiết nhất hiện nay đó là “Việc làm – thất nghiệp”. Như vậy từ những vấn đề được phân tích ở trên, cũng như tình hình thực tế ở VN hiện nay ta có thể thấy được tầm quan trọng của các nhà quản lý cùng những chính sách thích hợp của họ. Cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do ngành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chất chiến lược và kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.

Th.S Nguyễn Thị Ngân
Theo: Vietnam Logistics Review.

Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp bán lẻ (Kỳ 1)

(Kỳ 1: Xu hướng phát triển nhãn hàng riêng và định vị thương hiệu bán lẻ)

1. Phát triển nhãn hiệu riêng và xây dựng thương hiệu của nhà bán lẻ

Trên thị trường thế giới, các nhà bán lẻ đang dần chiếm thế chủ động, họ không còn chỉ là điểm bán, là cửa hàng, là cây cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng mà đang thể hiện quyền lực chuyên môn của mình với những hiểu biết sâu sắc về khách hàng và khả năng tiếp cận thị trường tốt hơn bất cứ loại hình DN nào. Rõ nét nhất là xu hướng chuyển dần sang phát triển nhãn hàng riêng và các nhà sản xuất hàng tiêu dùng đang trở thành nhà cung cấp hàng hóa theo yêu cầu kinh doanh của bán lẻ.

Theo Hiệp hội các nhà sản xuất nhãn hiệu riêng (PLMA) và công ty AC Nielsen, năm 2009 cứ 4 sản phẩm tiêu thụ tại các cửa hàng thực phẩm và phi thực phẩm như siêu thị thì có 1 sản phẩm mang nhãn hiệu riêng. Tại Bắc Mỹ, hơn 15% doanh thu do các nhãn hiệu riêng mang lại, tại Mỹ La tinh là 2%, châu Á 4% và châu Âu, quê hương của các nhãn hiệu riêng là 23%. Dẫn đầu về giá trị của các nhãn hiệu bán lẻ riêng là Aldi với thị phần lên tới hơn 98%, tiếp theo là Schwarz Group (60%), Tesco (50%), WalMart (39%) và Carrefour (36%).

Theo nguồn GSOVN bán lẻ Việt Nam đã lọt khỏi top 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, nhưng tổng doanh thu bán lẻ vẫn tăng đều trong các năm gần đây (Sơ đồ 1).

Doanh thu và tốc độ tăng trưởng thị trường bán lẻ Việt Nam 2007-2015 (Sơ đồ 1)

Điều này cho thấy thị trường bán lẻ đang phát triển vào chiều sâu, đặc biệt thể hiện rõ ở xu hướng các DN đang đẩy mạnh sử dụng nhãn hàng riêng và phát triển các thương hiệu bán lẻ của mình. Thương hiệu thương mại đang phủ lên thương hiệu sản xuất, người tiêu dùng đang quen dần với việc uống bia của nhà hàng quảng cáo Bia Hà Nội với tín nhiệm nhà hàng, hoặc yên tâm mua hàng nông sản thực phẩm ở siêu thị, hoặc ở các thương hiệu bán lẻ như Bác Tôm, Vinmart, Cleave food…

Không chỉ đảm bảo uy tín, nhãn hàng riêng thường có giá thấp hơn giá các sản phẩm cùng loại của nhà sản xuất. Khảo sát tại các siêu thị cho thấy giá cả hàng hóa với nhãn hàng riêng thường thấp hơn 10-30% so với sản phẩm có thương hiệu cùng loại. Tại Co.op Mart, một sản phẩm lau sàn nhà mang nhãn hiệu của nhà phân phối này được bán ra với mức 189.000 đồng, trong khi sản phẩm cùng loại ở mức 210.000220.000 đồng. Tương tự, các loại nước giải khát loại 500ml thường có giá từ 6.500-8.000 đồng/sản phẩm, nhưng với nhãn hàng riêng thì giá chỉ 6.000 đồng, thậm chí thấp hơn nhằm hấp dẫn khách hàng.

Đại diện hệ thống siêu thị Co.op Mart cho biết, họ đang kinh doanh khoảng 300 mặt hàng hơn 1.500 mã hàng với nhãn riêng. Tập trung vào nhóm hàng thực phẩm, gạo, bún, các loại gia vị, nước ngọt, thực phẩm đông lạnh, may mặc. Giá cả thường thấp hơn sản phẩm cùng loại 5-30% tùy từng loại hàng. Theo họ, lợi thế của nhãn hàng riêng là giá cả khá rẻ, không phải tốn kém chi phí sản xuất nên tiết kiệm được tối đa chi phí, do đó giá thành rẻ mà chất lượng vẫn đảm bảo. Giám đốc đối ngoại hệ thống Big C cho biết hiện nhãn hàng riêng chiếm khoảng 5% trong tổng số hàng hóa kinh doanh tại siêu thị với khoảng 1.000 mặt hàng. Lý giải việc giá thành thấp hơn sản phẩm cùng loại là nhờ việc phân phối cũng thuận tiện và không tốn chi phí quảng cáo, marketing.

Giống như các sản phẩm của sản xuất, việc xây dựng một thương hiệu bán lẻ bắt đầu với việc xác định chính xác về nhóm khách hàng mục tiêu, nhận thức về nhu cầu và kỳ vọng của họ. Tiếp theo, nhà bán lẻ phải quyết định nên đề xuất những lợi ích nào để thương hiệu của mình có được vị trí đáng chú ý trên thị trường. Sau đó, những nỗ lực quảng cáo và marketing của nhà bán lẻ phải nhằm tạo ra xung quanh thương hiệu một hình ảnh không chỉ phù hợp với những lợi ích này, mà còn hứa hẹn mang đến sự thỏa mãn và thích thú khác biệt và vượt trội so với các thương hiệu cạnh tranh khác trên thị trường.

Về cơ bản, những lý thuyết này luôn đúng cho mục tiêu phát triển thương hiệu của các đối tượng, ngay cả đối với thương hiệu con người, tuy nhiên do những khác biệt giữa sản phẩm của sản xuất và sản phẩm của thương mại bán lẻ nên cần có những thay đổi và thích nghi phù hợp. Phạm vi bài viết này đề cập đến hai khác biệt cơ bản trong chiến lược phát triển thương hiệu bán lẻ là xác định các lợi ích hay đặc trưng nổi bật mà thương hiệu bán lẻ cần quyết định khi định vị và sử dụng các phương tiện hữu ích trong hoạt động truyền thông xúc tiến thương hiệu của mình.

2. Những nhân tố định vị thương hiệu của nhà bán lẻ

Trong thực tế, các kiến thức xây dựng thương hiệu dành cho sản phẩm (Product branding) không thể áp dụng cứng nhắc vào hoạt động xây dựng thương hiệu của nhà bán lẻ (Retail branding). Cần phải có những điều chỉnh thích đáng bắt đầu từ việc định vị hình ảnh thương hiệu của nhà bán lẻ.

Là các tổ chức có chức năng phân phối hàng hóa, giúp cho các DN sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hoạt động kinh doanh bán lẻ luôn gắn liền với các sản phẩm và thương hiệu của nhà sản xuất. Tuy nhiên khác với sản phẩm của sản xuất, sản phẩm mà nhà bán lẻ mang lại cho khách hàng là các dịch vụ đi kèm với hàng hóa. Các dịch vụ vô hình này bao gồm sự đa dạng về cơ cấu chủng loại mặt hàng, sự thuận tiện của địa điểm bán hàng và thời gian phục vụ, sự phong phú của các lợi ích mà khách hàng được thụ hưởng khi đi mua hàng như lựa chọn, chăm sóc, tư vấn, bảo hành, vận chuyển… và do các dịch vụ này hầu hết đều được cung ứng trực tiếp tại cửa hàng nên các tiện nghi, thiết bị hỗ trợ trong quá trình phục vụ, kỹ năng, trình độ và thái độ phục vụ của nhân viên bán hàng, bầu không khí cửa hàng và hệ thống trưng bày hàng hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến cảm nhận chất lượng dịch vụ mà DN bán lẻ cung cấp cho khách hàng. Như vậy sản phẩm hay các lợi ích mà DN bán lẻ cung cấp và tạo ra sự hài lòng cho người tiêu dùng thực chất là các dịch vụ kể trên. Đây cũng chính là các nhân tố tạo ra năng lực cạnh tranh cho DN bán lẻ, chúng tồn tại đồng thời, đan xen kết hợp với nhau và cấu thành nên hình ảnh thương hiệu của cửa hàng. Do đó đây cũng chính là các nhân tố cần được xem xét để định vị trong quá trình xây dựng thương hiệu cho DN bán lẻ.

Tuy nhiên các nhân tố này cũng được sắp xếp theo thứ tự tầm quan trọng để DN bán lẻ có thể ưu tiên trong quá trình lựa chọn định vị. (Sơ đồ 2) chỉ ra vị trí và các yếu tố cơ bản cấu thành nên hình ảnh thương hiệu tại cửa hàng bán lẻ theo cách hiểu này.

Trong mô hình này, vai trò của các yếu tố là không giống nhau. Nằm ở trung tâm mô hình là chức năng và các lợi ích cốt lõi của thương hiệu bán lẻ, bao gồm 4 nhân tố chính cho mọi loại hình bán lẻ: (1) Các nhóm hàng hóa (chiều rộng phổ hàng), (2) Sự đa dạng về chủng loại hàng hóa (chiều dài và sâu của phổ hàng), (3) Các dịch vụ khách hàng được cung cấp, (4) Mức giá bán lẻ. Đây cũng chính là các thông số chính để phân biệt các loại hình bán lẻ với nhau.

Phần bao bọc bên ngoài là các yếu tố hoạt động như trưng bày hàng hóa, nhân viên phục vụ, trang thiết bị cửa hàng, thời gian mở cửa hàng, địa điểm bán hàng, hoạt động xúc tiến và giao tiếp trong bán hàng… chúng có tầm quan trọng ngang nhau trong việc thể hiện giá trị cốt lõi của thương hiệu. Sự thể hiện của các yếu tố này tổng hợp nên trải nghiệm của người tiêu dùng đối với thương hiệu bán lẻ. Khi bất kỳ yếu tố nào bị bỏ quên hay không được thể hiện đúng mức, ngay lập tức trải nghiệm của người tiêu dùng bị thay đổi, dẫn đến thay đổi về nhận thức thương hiệu.

Các nhân tố cơ bản trên cần được nghiên cứu lựa chọn để tìm ra yếu tố định vị cho thương hiệu và khắc họa trên một hệ thống nhận diện thương hiệu bán lẻ bao gồm logo, màu sắc, cách thức và vật liệu trang trí gắn liền với hình ảnh cửa hàng. Tuy nhiên theo nguyên tắc chung của định vị hình ảnh thương hiệu thì không thể lựa chọn quá nhiều các dấu hiệu định vị, nên việc thiết kế tên gọi (Brand name) hay logo, biểu tượng của cửa hàng chỉ có thể chuyển tải được về cơ bản dấu hiệu định vị này. Thí dụ như tên gọi của thương hiệu Cash and Carry là nhắm vào nhân tố dịch vụ vận chuyển và thanh toán; Best Buy nhằm vào hoạt động bán hàng; Sevend Eleven nhằm vào yếu tố thời gian…

Để tận dụng toàn bộ các nhân tố này vào mục tiêu khắc họa hình ảnh thương hiệu thì cần thêm sự trợ giúp đắc lực của các hoạt động như trưng bày hàng hóa tại cửa
hàng, giao tiếp nhân viên, thiết kế cửa hàng, đặc biệt là các hình thức khuyến mãi, các tác nghiệp giảm giá theo mùa, thu hút khách đến bằng những mặt hàng đại hạ giá. Đây cũng chính là những hoạt động nằm trong quá trình cung cấp dịch vụ tại cửa hàng, có tác động rất lớn đến nhận thức của khách hàng về chất lượng dịch vụ và uy tín cửa hàng, một phần không thể thiếu trong thương hiệu bán lẻ.

Như vậy, xây dựng thương hiệu trong ngành bán lẻ đòi hỏi tính quản lý chi tiết và không tách rời khỏi hoạt động của cửa hàng. Việc chủ động phối hợp tất cả các yếu tố hình ảnh thương hiệu trong hoạt động bán hàng, giúp xây dựng một chương trình truyền thông toàn diện cho một thương hiệu bán lẻ. Việc thực hiện quy trình không đồng bộ tại các cửa hàng khác nhau trong chuỗi cửa hàng cũng làm ảnh hưởng không tốt đến thương hiệu.

(còn tiếp)…

Kỳ 2: Các phương tiện truyền thông cho thương hiệu bán lẻ

Theo: Vietnam Logistics Review.

Khai trương Tân Cảng-Cái Cui tại Cần Thơ

Cảng Tân Cảng – Cái Cui nằm bên bờ sông Hậu (quận Cái Răng, CầnThơ) thuộc Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (SNP) đã chính thức khai trương vào sáng nay 6-12, sau hơn một tháng đón chuyến tàu container đầu tiên vào Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

caicui1

Phát biểu tại lễ khai trương, ông Ngô Quang Chung, Phó tổng giám đốc SNP, cho biết Tân Cảng – Cái Cui được khai trương giai đoạn 1 với tổng diện tích hơn 7 héc ta; có 2 kho hàng rộng 6.000 mét vuông, cầu tàu dài 180 mét, mớn nước trước bến – 8,5 mét; có thể tiếp nhận tàu trọng tải 20.000 tấn. Đây là cảng container chuyên dụng đầu tiên ở ĐBSCL được trang bị các phương tiện xếp dỡ hiện đại cho cả hàng container và hàng rời.

Trước đó, ngày 24-10, Tân Cảng – Cái Cui đã đón chuyến tàu container đầu tiên từ Hải Phòng vào, đây cũng là chuyến tàu biển trọng tải lớn đầu tiên vào sông Hậu qua luồng Kênh Quan Chánh Bố ở Trà Vinh, cửa sông Hậu. Từ đó đến nay, mỗi tuần một chuyến, Tân Cảng – Cái Cui đã đón 6 chuyến tàu container với giải pháp logistics trọn gói, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.

Theo ông Ngô Quang Chung, việc khai trương cảng Tân Cảng – Cái Cui nhằm kết nối liên vùng ĐBSCL phát triển với cả nước và quốc tế.

Từ năm 2010 đến nay, SNP đã đầu tư, quản lý và khai thác hệ thống 8 cảng nội địa và cơ sở logistics tại ĐBSCL gồm Tân Cảng – Cao Lãnh, Tân Cảng – Sa Đéc (Đồng Tháp), Tân Cảng – Mỹ Thới (An Giang), Tân Cảng – Giao Long (Bến Tre), Tân Cảng – Thốt Nốt, Tân Cảng – Trà Nóc và Tân Cảng – Cái Cui (Cần Thơ).

Theo ông Ngô Quang Chung, với chiến lược kinh doanh dựa trên ba trụ cột là là khai thác cảng – cung ứng dịch vụ logistics – vận tải biển và dịch vụ biển, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn đang có quan hệ hợp tác kinh tế với hàng ngàn doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trên 100 hãng tàu, khách hàng trên thế giới, giữ vị trí số 1 Việt Nam về khai thác cảng biển và cung ứng dịch vụ logistics; đứng trong 25 cảng lớn và hiện đại nhất thế giới.

Năm 2016, sản lượng container thông qua hệ thống cảng của tổng công ty dự kiến đạt 6 triệu TEU (80 triệu tấn), giữ 89% thị phần khu vực phía Nam và gần 50% thị phần cả nước; giải quyết việc làm cho trên 10.000 lao động trong và ngoài doanh nghiệp.

Theo: TBKTSG Online.

Chuỗi cung ứng nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long: Những trở lực

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực của toàn Việt Nam, là vựa lúa và nông thuỷ sản lớn nhất cả nước. Hơn 65% dân cư vùng ĐBSCL làm nghề nông. Ngành nông nghiệp của ĐBSCL đóng góp vào 27% GDP của cả nước. Nhưng chuỗi cung ứng nông nghiệp của khu vực Tây Nam Bộ quan trọng này đang cho thấy nhiều bất cập, lỏng lẻo, thiếu sự quản lý chặt chẽ và tác động tiêu cực đến nền kinh tế.

Chuỗi cung ứng bị “quản chế” bởi thương lái

Tuy vai trò và nhiệm vụ của ĐBSCL đối với nền kinh tế quốc gia là rất lớn, rất quan trọng, nhưng thực trạng hiện nay, nhìn ở góc độ chuỗi cung ứng ngành nông nghiệp thì còn nhiều bất cập, yếu kém. Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản vật của ĐBSCL đã bị “quản chế” bởi nhiều bên trung gian, các thương lái. Thương lái là rào cản giữa nông dân và DN vì giá trị họ đem lại thấp nhưng lại thu lợi nhiều, trong khi quyền lợi người nông dân thì hoàn toàn ngược lại. Các thương lái có lợi thế là am tường địa phương, có phương tiện vận tải đường thủy và hệ thống kho rải khắp ven sông. Họ tập trung khai thác mạng lưới sông ngòi của ĐBSCL để vận chuyển nông sản. Tính linh hoạt cao cho phép thương lái thu mua và vận chuyển nông sản ở khu vục nông thôn với điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông kém phát triển. Đây có thể coi là đóng góp lớn nhất của thương lái cho chuỗi giá trị, với vai trò đơn vị cung cấp dịch vụ logistics. Tuy nhiên bất cập ở chỗ thương lái lại đóng vai trò thương nhân bán nông sản cho DN và từ đó họ dễ dàng có các động thái thao túng giá và nguồn cung. Điều này làm chậm dòng chảy hàng hóa và cũng làm tắc nghẽn, thiếu minh bạch dòng chảy nguyên liệu, thông tin.

Hơn 90% nông dân coi thương lái là nguồn thông tin duy nhất về thị trường, và cũng là đối tượng thu mua nông sản duy nhất của họ. Về phía DN, cũng chính vì không có sự tương tác với nông dân nên hầu như cũng không nắm rõ được tình hình nguồn cung. Điều này đưa đến một tình cảnh đó là “bên cung không nắm được cầu và bên cầu không nắm được cung”, gây hệ quả là DN không có đủ thông tin để dự báo và lập kế hoạch cung ứng hiệu quả. Trong bất cứ mọi ngành, nếu như DN ở đầu ra thị trường không làm chủ được kế hoạch thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của toàn bộ chuỗi cung ứng về phía đầu cung. Trên thực tế căn nguyên của vấn đề một phần là từ thương lái, một phần là do vẫn còn nhiều DN chưa sẵn sàng hợp tác trực tiếp với nông dân.

So với các nước láng giềng Đông Nam Á như Philippines, Malaysia, và Thái Lan thì Việt Nam có một “tài sản” vô cùng quý giá đó là mạng lưới sông ngòi của ĐBSCL. Mạng lưới này không chỉ cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp mà còn có tiềm năng vận chuyển nông sản rất lớn. So với đường bộ thì đường thủy nội địa cho phép vận chuyển nông sản khối lượng lớn hiệu quả hơn rất nhiều. Tuy nhiên hiện nay cơ sở hạ tầng đường thủy cũng như hệ thống đường nông thôn tại ĐBSCL vẫn chưa được đầu tư phát triển đúng mức. Đường thủy và đường bộ vẫn chưa kết nối chặt chẽ được với nhau để phục vụ vận tải đa phương thức. Các DN cung cấp dịch vụ logistics hiện đại cũng chưa đầu tư khai thác hệ thống sông ngòi. Những thương lái hiểu rất rõ khả năng vận tải đường thủy chính là thế mạnh của họ. Ngoài đường thủy thì cơ sở hạ tầng kho bãi, các trạm trung chuyển và vận tải đa phương thức cũng cần được đầu tư thêm.

Theo chiến lược an ninh lương thực quốc gia, hướng đến năm 2020, yêu cầu ngành nông nghiệp ĐBSCL phải tăng sản lượng gạo từ 21 triệu tấn/năm lên 22.1 triệu tấn/năm. Tổng sản lượng thủy sản cần phải tăng 28% vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu phát triển, ngành nông nghiệp ĐBSCL được định hướng cần phải tăng cường liên kết vùng, nâng cao năng suất và đầu tư, quản lý, phát triển hạ tầng giao thông.

Năng lực quản lý và đầu tư kém… là nguyên nhân tổn thất

Năng lực quản lý và đầu tư kém là nguyên nhân khiến cho tốc độ đầu ra thị trường của nông sản bị chậm chạp và gây ra nhiều tổn thất. Ngoài ra, hệ thống kho lạnh, kho mát chưa hoàn thiện, thiếu sơ chế sau thu hoạch cũng góp phần vào tỷ lệ tổn thất cao cho nông thuỷ sản của ĐBSCL. Tốc độ ra thị trường là đặc biệt quan trọng đối với mặt hàng dễ hư hỏng như rau quả, trái cây và thủy sản. Không ít trường hợp thương lái có những động thái ghim hàng nhằm đẩy giá, trục lợi khiến cho hàng hóa bị tồn đọng ở khâu trung gian khá lâu dễ dẫn đến hao hụt, hư hại.

Về chuỗi cung ứng lạnh, các khoản đầu tư hiện nay hầu như được ưu tiên cho nông sản xuất khẩu, trong khi chuỗi nông sản tiêu thụ trong nước còn rời rạc, thậm chí bị gián đoạn ở nhiều khâu. Trong quá trình tư vấn cho DN, ông Julien đã chứng kiến những chuỗi cung ứng lạnh bị gián đoạn ở ngay bước cuối cùng khi mà hàng thực phẩm tươi sống được giao đến siêu thị, nhưng lại chưa được tổ chức để lưu kho lạnh, kho mát ngay mà còn phải chờ dưới nhiệt độ ngoài trời. Mặc khác, việc sơ chế nông sản ngay sau khi thu hoạch là một thực hành phổ biến tại các quốc gia phát triển với mục đích loại bỏ những phần không sử dụng trước khi nông sản được đưa vào vận tải. Điều này cho phép giảm khối lượng hàng hóa cần chuyên chở giúp giảm chi phí và tỷ lệ hư hỏng. Thời điểm tối ưu nhất để thực hiện sơ chế là ngay sau khi thu hoạch. Tuy nhiên tại Việt Nam thì việc sơ chế sau thu hoạch vẫn còn khá thủ công và chưa thực hiện rộng rãi vì đa phần sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ.

Ông Julien Brun chia sẻ rằng hiện nay tốc độ ra thị trường của nông sản ĐBSCL còn rất chậm là vì thương lái trực tiếp kiểm soát thu mua, gây ảnh hưởng lên nguồn cung và giá mua nông sản của DN.

Theo: Vietnam Logistics Review.