Khởi công dự án “Kho ngoại quan và Trung tâm Logistcis Khu Công nghệ cao”

Đây là dự án có tổng vốn đầu tư gần 600 tỷ đồng, tổng diện tích hơn 10 ha bao gồm kho ngoại quan, kho bảo thuế, kho CFS, kho thường, kho lạnh, và bãi chứa Container (chức năng là một ICD). Cùng với các tiêu chuẩn trang thiết bị tiên tiến như hệ thống camera 24/7, hệ thống khung kệ chứa hàng 7 tầng, hệ thống PCCC đạt tiêu chuẩn, phần mềm quản lý hiện đại…

Với vị trí nằm gần đường vành đai, kết nối với tam giác phát triển quanh Tp.HCM là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu cùng với hệ thống cụm cảng số 5 trong đó có khu cảng chính của Tp.HCM. Trung tâm này sẽ tập trung phát triển dịch vụ logistics, tích hợp trọn gói và đồng bộ, tổ chức và hoạt động theo mô hình logistics bên thứ 3 (3PL) trên cơ sở phát triển quản trị chuỗi cung ứng hiện đại, hiệu quả, chuyên nghiệp.

Như vậy, đầu tháng 7 vừa qua, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định về việc phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Lễ khởi công Kho ngoại quan và trung tâm logistics tại khu công  nghệ cao thật sự là một bước tiến quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển hơn 30 năm của Công ty Cổ phần Transimex-Saigon. Khi đi vào hoạt động vào tháng 3.2016, trung tâm logistics tại đây sẽ trở thành đơn vị nòng cốt trong lưu thông và phân phối hàng hoá, phục vụ đắc lực cho sản xuất cho khu vực phía Nam.

Mỹ Duyên
Theo: Vietnam Logistics review.

Thái Lan đề nghị mở tuyến xe buýt kết nối ba nước Việt Nam-Lào-Thái Lan

Phía Việt Nam đề nghị phía Thái Lan tạo điều kiện và giảm thiểu thủ tục hành chính cho tầu, hàng hóa, thuyền viên khi vào cảng Thái Lan; giảm các phí, lệ phí thủ tục xuất nhập cảnh cho tàu ở mức hợp lý.

Bên lề cuộc họp nội các chung Việt Nam-Thái Lan lần thứ 3 vừa diễn ra giữa Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính phủ Thái Lan Prayut Chan Ocha, đoàn công tác của Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã có buổi làm việc với Bộ Giao thông Vận tải Thái Lan xung quanh các nội dung triển khai hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải mà hai nước đã trao đổi.

Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam có cuộc trao đổi với ông Phạm Thanh Tùng, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ Giao thông Vận tải) xung quanh những nội dung làm việc tại cuộc họp này.

– Là thành viên trong đoàn công tác của Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam sang làm việc với Bộ Giao thông Vận tải Thái Lan, ông có thể chia sẻ những nội dung chính mà hai bên đã trao đổi trong vấn đề hợp tác về giao thông vận tải? 

Ông Phạm Thanh Tùng: Trong chuyến đi tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm và làm việc tại Thái Lan vừa qua, đoàn đại biểu Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam do Thứ trưởng Nguyễn Nhật dẫn đầu đã có buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Thái Lan Prachin Chantong để tiếp tục triển khai các nội dung mà trước đó Bộ trưởng Bộ Giao thông Thái Lan đã làm việc song phương với Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng hồi tháng Năm vừa qua tại Hà Nội.

Tại cuộc họp lần này, Bộ Giao thông Vận tải hai nước đã trao đổi nhiều vấn đề lớn.

Về các vấn đề liên quan đến thúc đẩy vận tải đường bộ, đặc biệt là vận tải đường bộ qua trục Đông-Tây kết nối Việt Nam-Lào với Thái Lan, trước hết, phía Thái Lan đề nghị thống nhất mở tuyến xe buýt kết nối giữa ba nước Việt Nam-Lào-Thái Lan. 

Việc mở tuyến xe buýt này theo đánh giá không những đáp ứng nhu cầu chung của hai nước, nhưng trước hết là mong mỏi tha thiết của tỉnh Hà Tĩnh khi có tuyến xe buýt nối với các tỉnh Đông Bắc của Thái Lan.

Về mở tuyến xe buýt này, hai bên đã thống nhất sẽ có cuộc họp ba bên gồm Việt Nam, Lào và Thái Lan để họp bàn cụ thể, đặc biệt là kế hoạch triển khai chi tiết.

Trong cuộc họp cuộc họp ba bên đầu tiên này, phía Thái Lan đề nghị Việt Nam đứng ra chủ trì. Qua làm việc với Bộ Giao thông Công chính của Lào, phía Lào cũng đã thống nhất trong nửa cuối tháng Tám tới sẽ tổ chức cuộc họp này tại Hà Nội.

Để thúc đẩy hợp tác có hiệu quả kết nối giao thông giữa hai nước, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đề nghị bổ sung tuyến Nong Khai (Thái Lan)-Vientiane (Lào)-Hà Nội (Việt Nam). Lựa chọn một trong năm tuyến vận tải hành khách giữa Việt Nam-Lào-Thái Lan để thí điểm tổ chức mời các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước giữa các bên cùng nhau tham gia khảo sát về hành trình, tuyến đường, nhu cầu vận chuyển hành khách, biển báo, cơ sở hạ tầng đường bộ giữa các bên…

Tại cuộc họp, hai bên nhất trí thành lập nhóm đặc trách chung để thực hiện nghiên cứu về phát triển vận tải ven bờ kết nối giữa Việt Nam-Campuchia-Thái Lan. Phía Thái Lan đã mời Campuchia tham gia nhóm công tác ba bên và đã đưa ra tại cuộc họp đề xuất chương trình hành động, nội dung bao gồm việc tổ chức ba cuộc họp nhóm công tác do các nước liên quan chủ trì và một chuyến khảo sát tuyến vận tải thương mại ven biển.

Cuộc họp đầu tiên của nhóm công tác sẽ do Thái Lan tổ chức và sẽ mời Việt Nam và Campuchia tham dự, dự kiến vào tháng Tám để xem xét dự thảo, điều khoản tham chiếu của nhóm công tác và trao đổi thông tin về các các cảng và hạ tầng hỗ trợ phát triển vận tải ven bờ.

Ngoài ra, trong lĩnh vực hàng hải, phía Việt Nam cũng đã đề nghị Thái Lan công nhận giấy chứng nhận khả năng chuyên môn cho thuyền viên theo Công ước STCW (Công ước Quốc tế về các tiêu chuẩn huấn luyện cấp bằng và trực ca cho thuyền viên) để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các thuyền viên hai nước.

Phía Việt Nam đề nghị phía Thái Lan tạo điều kiện và giảm thiểu thủ tục hành chính cho tầu, hàng hóa, thuyền viên khi vào cảng Thái Lan; giảm các phí, lệ phí thủ tục xuất nhập cảnh cho tàu ở mức hợp lý.

Hai bên sớm thành lập nhóm nghiên cứu về tuyến vận tải ven bờ từ bờ biển phía Đông của Thái Lan tới bờ phía Nam của Việt Nam để thúc đẩy việc mở tuyến (nghiên cứu chủng loại hàng hóa, loại tàu, cảng biển kết nối…). Hai bên cũng thống nhất tạo thuận lợi cho hoạt động của các hãng hàng không hai nước.

Đối với các hãng hàng không liên doanh Việt-Thái, hai bên thống nhất Bộ Giao thông Vận tải Thái Lan sẽ hỗ trợ cho hoạt động của liên doanh, bao gồm chính sách ưu đãi và các hỗ trợ khác.

Liên doanh hàng không Thai-Vietjet đã chính thức được thành lập tại Thái Lan. Thai-Vietjet đang gấp rút hoàn tất các thủ tục cần thiết để chuẩn bị đi vào khai thác các chuyến bay thường lệ nội địa và quốc tế đến/đi từ Thái Lan vào tháng 9/2015.

Để tạo thuận lợi cho sự phát triển của liên doanh hàng không Thai-Vietjet, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đề nghị Bộ Giao thông Vận tải Thái Lan xem xét hỗ trợ sớm cấp phép khai thác thương lệ (AOL) cho liên doanh này. Đại diện của Cục Hàng không Thái Lan cũng đã trả lời trong tháng Tám này sẽ cấp phép cho liên doanh Thai-Vietjet thực hiện các chuyến bay trong nước và quốc tế.

– Để hiện thực hóa các nội dung hợp tác về giao thông vận tải đường bộ giữa hai nước, công tác chuẩn bị sẽ được thực hiện như thế nào, thưa ông? 

Ông Phạm Thanh Tùng: Về công tác chuẩn bị để hiện thực hóa các cam kết trên, trước tiên chúng tôi phải xem xét, bàn bạc cùng nhau các nội dung liên quan đến việc mở các tuyến vận tải như trên. Việc mở các tuyến này bao gồm những yếu tố để tạo thuận lợi cho các bên tham gia, bởi một trong những yếu tố để mở tuyến vận tải là nhu cầu, phải có nhu cầu thì mới mở tuyến được.

Như vậy, chúng ta phải có sự chuẩn bị, tiến hành khảo sát và có báo cáo đánh giá về nhu cầu hành khách vận chuyển từ Việt Nam thông qua các tuyến đường 9, đường 8, đường 12 sang Lào và Thái Lan với số lượng cụ thể. Ngược lại chúng ta cũng phải đề nghị với Thái Lan, Lào cũng phải chuẩn bị những thông số tương tự như vậy.

Vấn đề tiếp theo cũng phải bàn bạc và chuẩn bị đó là sẽ có những trở ngại như thế nào khi thực hiện những chuyến vận tải này; trong đó phải nêu rõ và chi tiết các điểm nghỉ, điểm dừng chân, thời gian cụ thể cho hợp lý và việc tổ chức tuyến, cũng phải thống nhất với nước bạn là khi trên tuyến đi qua các cửa khẩu hiện tại có vướng mắc gì không về thủ tục giấy tờ, kiểm soát an ninh, hải quan…. Tiếp theo là bàn về các vấn đề kỹ thuật, chủng loại xe là bao nhiêu, số lượng xe, tần xuất…

Nói tóm lại, tất cả các vấn đề liên quan cần phải chuẩn bị và trao đổi cụ thể. Hiện tại, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã giao cho Tổng cục đường bộ Việt Nam chịu trách nhiệm nghiên cứu để đưa ra đề cương trao đổi, thảo luận giữa các bên và tiến tới thỏa thuận này sẽ được ký kết giữa ba Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải ba nước Việt Nam, Lào và Thái Lan.

Bên cạnh đó, cũng liên quan đến hành lang Đông-Tây, Việt Nam và Thái Lan tiếp tục trao đổi, bàn bạc các vấn đề liên quan đến phát triển vận tải du lịch như các thỏa thuận đã ký trước đó.

– Ông có thể đánh giá những khó khăn sẽ gặp phải khi thực hiện sự hợp tác vận tải đường bộ giữa hai nước? 

Ông Phạm Thanh Tùng: Có thể nói khi thực hiện các tuyến vận tải xuyên Quốc gia chúng ta phải lường trước rất nhiều những khó khăn. Ở đây, cụ thể khó khăn chính là cách thức tổ chức tuyến vận tải, vấn đề quảng bá, quảng cáo như thế nào…, việc tạo thuận lợi cho hành khách đi trên đường ra sao thì mới có thể duy trì được các tuyến vận tải đó một cách lâu dài, bền vững.

Nếu như chúng ta mở tuyến vận tải nhưng chi phí đi lại cao, dịch vụ kém thì sớm muốn sẽ thất bại, hành khách sẽ không đi nữa. Mặt khác, đây là tuyến vận tải xuyên quốc gia vì thế sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi công vụ về kiểm tra, kiếm sát tại các cửa khẩu cũng rất phức tạp.

Để có sự thống nhất giữa các cơ quan này, đòi hỏi các cơ quan cửa khẩu của Việt Nam với Lào và giữa Lào với Thái Lan cần duy trì thông tin thông suốt giúp giải quyết các vấn đề phát sinh trên tuyến một cách nhanh nhất, qua đó tạo thuận lợi cho hành khách đi lại…

Theo: TTXVN/Vietnam+

Acmecs-6: đẩy mạnh hợp tác tiểu vùng Mê Kông – tiến đến AEC

(Vietnam Logistics Review) Với nỗ lực hợp tác khu vực cùng việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015 và triển vọng hoàn tất 14 Hiệp định thương mại tự do trong giai đoạn 2015-2020. Trong đó có Chiến lược Hợp tác kinh tế 3 dòng sông (ACMECS). VN sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 55 đối tác, bao gồm tất cả các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.

KHU VỰC TIỂU VÙNG MÊ KÔNG

Khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bao gồm Thái Lan, VN, Lào, Campuchia và Myanmar được đánh giá là khu vực quan trọng ở vùng Đông Nam Á, tập trung các nước nằm ở hạ lưu sông Mê Kông chạy từ vùng núi cao ở Trung Quốc và đổ ra Biển Đông. Với tổng diện tích 2,3 triệu km2, đông dân cư (320 triệu người), đa sắc tộc và có các nền văn hóa rất phong phú, lưu vực sông Mê Kông giàu tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Các nước Mê Kông duy trì mức tăng trưởng kinh tế khá, trung bình khoảng 6-7%/năm. Hiện có hơn 10 cơ chế hợp tác Mê Kông đang hoạt động và bổ trợ hữu hiệu cho hợp tác song phương giữa các quốc gia, thúc đẩy phát triển bền vững tại tiểu vùng. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến khuôn khổ Chiến lược Hợp tác kinh tế 3 dòng sông (ACMECS) và Hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS).

Chiến lược ACMECS

ACMECS (lấy tên 3 dòng sông chính trong lưu vực sông Mê Kông) là khuôn khổ hợp tác kinh tế gồm 5 nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và VN nhằm tăng cường hợp tác kinh tế chung và song phương để khai thác và phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các nước thành viên, nâng cao sức cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách phát triển. ACMECS hình thành dựa trên sáng kiến của Thái Lan vào năm 2003 trong bối cảnh đã khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính năm 1997, muốn tranh thủ mở rộng thị trường, tận dụng tài nguyên, lao động của các nước láng giềng. Đến nay ACMECS được xác định với 8 lĩnh vực ưu tiên: tạo thuận lợi thương mại và đầu tư; nông nghiệp; hợp tác công nghiệp và năng lượng; kết nối giao thông du lịch; phát triển nguồn nhân lực; y tế và hợp tác về môi trường. VN chính thức tham gia ACMECS tại Hội nghị Bộ trưởng ACMECS lần thứ 1 tại Thái Lan, tháng 11.2004.

Sau hơn 10 năm, sự hợp tác chiến lược mà các nước thành viên ACMECS đã có những tiến triển tích cực. Nền kinh tế 5 nước đều đang khởi sắc, tăng trưởng tích cực và là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển bền vững ở khu vực Đông Nam Á. Sự hợp tác mạnh mẽ và gần gũi giữa các nước thành viên ACMECS sẽ có lợi cho khối ASEAN trên con đường xây dựng AEC, cũng như nâng cao tính cạnh tranh, vai trò và vị thế trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, nhất là cùng nằm trên giao lộ kết nối giữa Đông Nam Á và các thị trường rộng lớn như Trung Quốc và Ấn Độ. Kết quả hợp tác ACMECS, nhất là trong liên kết giao thông thông qua phát triển các tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây và Hành lang phía Nam đã góp phần cắt giảm chi phí giao thông, nâng cao tính cạnh tranh của khu vực.

Hội nghị cấp cao ACMECS lần thứ 6 diễn ra tại Myanmar vào ngày 23.6.2015 đã nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của các nước thành viên, đặc biệt là các chương trình hợp tác vì sự phồn thịnh của mỗi quốc gia, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của cả khu vực. Đánh giá về kế hoạch hành động giai đoạn 2013-2015, các nhà lãnh đạo cho rằng kế hoạch đã đạt tiến bộ nhất định, đặc biệt trong kết nối giao thông, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa 5 nước, phát triển các hành lang kinh tế liên quốc gia như Hành lang kinh tế Đông – Tây, Hành lang kinh tế phía Nam, phát triển du lịch xanh và hợp tác nông nghiệp.

Hội nghị cũng thông qua kế hoạch hành động giai đoạn 2016-2018 với mục tiêu là nâng cao sức cạnh tranh của các nền kinh tế, đưa ACMECS thành điểm đến hàng đầu về đầu tư và du lịch, hình thành cơ sở sản xuất thống nhất trong khu vực ACMECS, đặc biệt ở các khu vực biên giới. Để khai thác triệt để tiềm năng hợp tác giữa các nước thành viên ACMECS, trong thời gian tới cần đặt trọng tâm vào các nội dung:

– Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác về nông nghiệp – lĩnh vực có tiềm năng và là ngành sản xuất chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất tại các nước ACMECS. Mục tiêu chính là hỗ trợ các nước thành viên nâng cao năng suất lao động thông qua thu hút đầu tư, tạo quy mô kinh tế lớn hơn và áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại; phát triển ngành công nghiệp chế biến để tăng hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp; hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp tại tiểu vùng, từng bước hội nhập vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Từ những kinh nghiệm của Thái Lan trong nỗ lực phát triển ngành chế biến và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho các sản phẩm nông nghiệp, các nước thành viên ACMECS có thể học hỏi kinh nghiệm và tăng cường hợp tác trong việc xây dựng thương hiệu trong khu vực nông sản, nâng cấp các chương trình hợp tác với các đối tác và thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, hợp tác lúa gạo giữa các thành viên ACMECS cần tập trung vào lĩnh vực sản xuất và chuyển giao công nghệ trước và sau thu hoạch.

– Thứ hai, tạo thuận lợi cho giao thông và thương mại biên giới, đặc biệt là dọc các tuyến hành lang kinh tế tiểu vùng; thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận song phương và đa phương đã ký kết; phối hợp xây dựng các chính sách mới thúc đẩy thương mại, đầu tư và hình thành các tuyến vận tải mới kết nối năm nước. Các nước cần sớm triển khai mô hình kiểm tra một lần dừng tại các cặp cửa khẩu dọc tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây và Hành lang kinh tế phía Nam.

– Thứ ba, hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Ayeyawady – Chao Phraya – Mekong, đặc biệt là trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu; phối hợp thực hiện đánh giá chung về tác động môi trường xuyên biên giới. Bên cạnh nguồn nội lực, các nước ACMECS cần phối hợp cùng vận động hỗ trợ từ các đối tác trong triển khai các dự án hợp tác.

Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với hội nhập ASEAN chính là khoảng cách phát triển giữa các thành viên ASEAN, đặc biệt là giữa các nước Campuchia – Lào – Myanmar – VN với các nước ASEAN. Do đó, các nỗ lực hợp tác tiểu vùng Mê Kông có ý nghĩa lớn lao trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm thúc đẩy hội nhập của các nước Campuchia – Lào – Myanmar – VN vào tiến trình phát triển chung của khu vực. Các hợp tác này một mặt phát huy lợi thế, tiềm năng sẵn có của các nước này, mặt khác là kênh kêu gọi hỗ trợ của các nước ASEAN khác và các đối tác phát triển.

Dương Ngọc

Theo: Vietnam Logistics Review

Xuất khẩu tiểu ngạch vẫn ùn ứ tại cửa khẩu

(Vietnam Logistics Review) Xuất khẩu tiểu ngạch thường tiềm ẩn nhiều bất ổn cũng như rủi ro từ việc thay đổi chính sách trong kiểm dịch, tiêu thụ… không được thông báo trước, hoặc do năng lực giao nhận, hạ tầng tại những lối mở không phát triển kịp làm giảm năng lực thông quan dẫn đến ùn tắc.

GIAN NAN XUẤT KHẨU THEO ĐƯỜNG TIỂU NGẠCH

VN là đất nước có nền sản xuất nông nghiệp rất lớn, do vậy việc tiêu thụ nông sản cho nông dân là hoạt động trọng tâm ưu tiên của Chính phủ cũng như của Bộ Công Thương. Tuy nhiên, đặc thù của nông sản khác với các mặt hàng công nghiệp là có độ hư hỏng nhanh, việc bảo quản phụ thuộc nhiều vào thời tiết, sản xuất nông nghiệp vẫn phải theo thời vụ gieo trồng, không chủ động được đơn hàng đặt trước, khâu tìm thị trường dẫn đến bị ảnh hưởng.

Hiện nay xuất khẩu nông sản của VN về cơ bản vẫn được tiến hành thông qua con đường chính ngạch với số lượng hợp đồng lớn, giao hàng qua qua đường biển chiếm 2/3 sản lượng xuất khẩu, chỉ có 1/3 hàng hóa nông sản xuất khẩu qua đường tiểu ngạch.

Ngoài ra, đặc thù của VN với các nước bạn có chung đường biên giới nên hoạt động thương mại qua biên giới sẽ là thành phần tất yếu trong giao dịch, giao thương giữa các nước. Vì vậy, những giao dịch này cũng có những quy luật khác, không giống thương mại quốc tế thông thường, do những chính sách của hai bên, có nước bạn hoạt động thương mại vùng biên do chính quyền địa phương điều tiết, không phụ thuộc vào chính sách quản lý thương mại của Trung ương, từ đó dẫn đến nhiều sự phụ thuộc, các xe chở gạo, nông sản cần phải có thời gian nhập kho bảo quản chờ
xuất khẩu.

Việc ùn ứ nông sản tại các cửa khẩu còn có nhiều nguyên nhân, điển hình là do thuế quan không đồng nhất. Như ở Lào Cai, hàng nông sản của TQ xuất sang thì thuế suất bằng 0%, trong khi hàng VN xuất sang lại bị đánh thuế cao như gạo là 17%, đường 60%, ngô có thời điểm lên tới 80%, nên bản thân DN bên họ nếu đi cửa khẩu chính cũng không còn lãi để mà đón hàng.

CẦN CÓ CHIẾN LƯỢC GIẢI QUYẾT

Những tháng đầu năm, liên tục xảy ra hàng nông sản VN ùn ứ tại các cửa khẩu, Bộ Công Thương đã kiến nghị các Bộ, ngành tiếp tục xem xét, bàn với địa phương có biện pháp thúc đẩy hơn nữa các hoạt động thông quan tại khu vực cửa khẩu biên giới với sự tham gia của lực lượng chức năng hai nước, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN đầu mối của hai bên.

“Chính phủ cần có biện pháp mang tính chiến lược, bắt buộc thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp để gắn kết giữa khâu tiêu thụ, lưu thông và xuất khẩu với khâu sản xuất của người nông dân. Trong đó, đặc biệt tạo điều kiện cho người nông dân nâng cao trình độ và chất lượng canh tác thông qua mô hình sản xuất mới có quy mô lớn hơn, có điều kiện tiếp cận với DN, tạo liên kết với vùng nguyên liệu, hướng sản phẩm nông sản đạt đến những quy chuẩn chất lượng sản phẩm bền vững, từ đó tiến vào những thị trường lớn của thế giới với những yêu cầu khắt khe” – Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết.

Thực tế này đã đặt ra rất nhiều vấn đề cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Mặc dù giải quyết được khâu tiêu thụ nông sản cho người dân nhưng trong suốt thời gian qua, xuất khẩu tiểu ngạch luôn tiềm ẩn rủi ro nên đã có nhiều cơ quan đề xuất siết chặt xuất khẩu tiểu ngạch. Tuy nhiên, thương mại tiểu ngạch là thương mại truyền thống đã, đang và sẽ tồn tại giữa nhiều quốc gia có chung đường bộ, đường thủy. VN có đường biên giới dài nên thương mại tiểu ngạch là do nhu cầu có thật của thương nhân các nước với nhau. Xuất phát từ nhu cầu nên về khía cạnh nào đó, xuất khẩu tiểu ngạch đáp ứng được nhu cầu của DN, nhanh chóng, đàm phán đơn giản, giá cả, lợi nhuận có thể cao hơn, chất lượng mặt hàng không đòi hỏi cao, nhãn mác, sản phẩm, sở hữu trí tuệ cũng
không cần…

Đã có ý kiến cho rằng nên loại bỏ xuất khẩu theo đường tiểu ngạnh. Nhưng nhu cầu của người dân như vậy thì không thể hạn chế tiểu ngạch ngay được. Mà vấn đề được đặt ra là tìm được phương hướng lâu dài để giải quyết vấn đề.

Phương Duy
Theo: Vietnam Logistics Review

Ngày hội an toàn giao thông đồng bào các dân tộc Tây Nguyên

Chương trình được tổ chức với sự đồng hành của “Quỹ an toàn giao thông và phát triển cộng đồng”. Đến dự ngày hội có lãnh đạo Bộ GTVT; Ủy ban ATGT Quốc gia cùng đại diện lãnh đạo một số Bộ, ban, ngành Trung ương, đại diện lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên và giáp Tây Nguyên.

Ngày hội ATGT đồng bào các dân tộc Tây Nguyên năm 2015 được tổ chức với mục đích phát động các hoạt động nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trật tự ATGT của đồng bào các dân tộc khu vực Tây Nguyên, đặc biệt là những người dân sinh sống nơi có tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua.

Đây cũng là dịp vận động đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tích cực tham gia vào công tác đảm bảo trật tự ATGT, bảo vệ các công trình giao thông, xây dựng hành vi có văn hoá khi tham gia giao thông.

Ngày hội đã thu hút trên 2.000 đoàn viên thanh niên cùng đồng bào các dân tộc tham gia và hưởng ứng. Nhiều hoạt động thiết thực đã được hưởng ứng như Lễ phát động kêu gọi đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tham gia công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông; Lễ ký cam kết bảo đảm trật tự ATGT của các Ban ATGT các tỉnh Tây Nguyên.

Ngoài ra, nhiều phần quà, học bổng có ý nghĩa cũng đã được trao tặng cho các 15 đội Thanh niên xung kích tham gia bảo đảm trật tư an toàn giao thông; 1.000 mũ bảo hiểm đạt chuẩn cũng đã được trao cho Ban ATGT Tỉnh Đắk Lắk.

Cũng trong sáng 27/6, Bộ GTVT; Ủy ban ATGT Quốc gia cùng đại diện lãnh đạo một số Bộ, ban, ngành Trung ương, đại diện lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên và giáp Tây Nguyên đã tổ chức hội nghị “triển khai kế hoạch tăng cường bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn Tây Nguyên” để đưa ra những giải pháp nhằm góp phần đảm bảo trật tự ATGT trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là sau khi  đưa vào khai thác dự án nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên và một số tuyến Quốc lộ trọng điểm trên địa bàn.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Cuộc đua trong chuỗi cung ứng dược phẩm

Những quy định mới bảo đảm tính liên tục, toàn vẹn cho chuỗi cung ứng dược phẩm đang chuẩn bị được hoàn thành. Trong khi một số công ty đã chuẩn bị mọi bước để đáp ứng những quy định đó, số còn lại đang ở giai đoạn chuẩn bị.

Việc theo dõi đường vận chuyển của một sản phẩm dược phẩm bắt đầu tư nguyên liệu cho đến sản phẩm vào tay người tiêu dùng thật sự rất phức tạp và rủi ro cao. Khi được thực hiện hoàn hảo, những chiến lược của chuỗi hành trình có thể giúp cải thiện danh tiếng của một thương hiệu. Tuy nhiên, việc tồn tại nhiều sai sót trong quá trình theo dõi – kiểm soát không chặt, hư hỏng, quá hạn sử dụng hoặc thuốc giả – có thể dẫn đến hàng loạt những kết quả xấu hơn cả việc mất uy tín. Vận chuyển kém chất lượng có thể quyết định ranh giới giữa sự sống và cái chết của một con người.

Nhiều công ty dược phẩm dễ dàng vấp phải thất bại nghiệt ngã khi các điểm yếu của họ đều tập trung vào những chuỗi hành trình này. Một trong những thất bại này gần đây đã gây ra một số vụ kiện khá lớn, với kết quả bị ghép vào tội hình sự liên bang.

Một ví dụ nổi tiếng về vấn đề trên đã xảy ra vào tháng 3.2015 vừa qua, khi McNeil-PPC Inc., một công ty con thuộc Johnson & Johnson, đã bị xử có tội tại tòa án Liên bang khi liên quan đến vụ thuốc dạng lỏng cho trẻ em pha quá liều. Phán quyết này được tuyên bố sau 5 năm nhà sản xuất công bố thu hồi hàng loạt sản phẩm thuốc dạng lỏng nhãn hiệu Tylenol và Motrin. Trước báo chí vào năm 2010, McNeil đã công bố số lượng dược phẩm thu hồi có thể đã chứa “rất ít” liều dư thừa. Các nhà nghiên cứu nước ngoài sau đó đã xác định chất trong đó là bao thể kim loại niken/crom liều lượng cao mà không có trong thành phần của thuốc.

CHUẨN BỊ CHO HÀNG LOẠT THAY ĐỔI

Quản lý chuỗi hành trình ổn định là điều không thể thiếu trong tất cả các yếu tố của Luật Bảo hộ chuỗi cung ứng dược phẩm (DSCSA), trong lúc các yêu cầu khác sẽ được thực hiện trong thập kỷ tới. Yếu tố chiến lược – và dễ dàng là bước đi sai lầm – có thể vừa giúp hoặc gián đoạn công việc của mọi bên liên quan, hợp tác trong suốt quá trình của chuỗi hành trình.

Những công ty tốt đôi khi vẫn đưa ra các quyết định sai lầm khi cố gắng phát triển chuỗi hành trình sản phẩm. “Tất cả DN đều phải đối mặt cùng một thời điểm khi mọi thứ nên hoạt động dưới những quyết định dứt khoát, nhưng với quá trình khá phức tạp như chuỗi hành trình lại không thể hoạt động như vậy”, ông Tom Wengrowski, Phó chủ tịch điều hành TRIOSE cho biết. Công ty TRIOSE là một nhánh của Wyomissing, một công ty quản lý logistics đặc biệt về những giải pháp cho ngành kinh tế chăm sóc sức khỏe.

Từ kinh nghiệm làm việc của mình với các công ty chăm sóc sức khỏe, Wengrowski chỉ ra hai nguồn gây hại lớn nhất cho quá trình của chuỗi hành trình: lập kế hoạch và nguồn lực kém. Ông ví dụ rằng: “Những công ty đều biết họ phải làm một bản báo cáo thông tin vào một ngày nhất định trong hai năm. Nhưng thay vì lập một bản kế hoạch từ trước, nhiều công ty khác lại trì hoãn do thiếu nhân lực, từ đây dẫn đến việc dồn nén công việc nghiêm trọng”.

Những công ty này cũng phải dành thời gian để hiểu rõ về thông tin và yêu cầu của các dự án họ nhận. “Ngay cả những công ty nổi tiếng đôi lúc vẫn không bỏ ra thời gian để áp dụng nguồn nhân lực đủ để xác định yêu cầu công việc. Tự suy đoán ra một giải pháp là một lỗi thường gặp nhất”, ông cho biết thêm.

TĂNG CƯỜNG TÍNh HIỆU QUẢ CỦA CHUỖI

“Vận chuyển dược phẩm bằng đường hàng không khá phức tạp bởi có vài nhà quản lý sân bay nội địa có một hệ thống khép kín, làm hạn chế việc theo dõi kiện hàng”, ông Jon Edgcombe giải thích. Jon Edgcombe hiện đang là trưởng nhóm phần mềm tại nhóm Tư vấn Cambridge – trụ sở tại Boston, một công ty thiết kế và phát triển sản phẩm cung cấp giải pháp chuỗi cung ứng lạnh cho ngành kinh doanh chăm sóc sức khỏe. Ông cho biết thêm rằng quá trình này không thể tránh khỏi – bao gồm việc truyền qua tay, khi thuốc men rời khỏi một môi trường hoàn hảo từ máy bay, chờ trên đường băng để rồi lại được đặt vào môi trường hoàn hảo cho chuyến đi còn lại. Đây cũng là thời điểm việc giám sát đến điểm kết thúc tiếp tục làm việc.

Edgcombe cũng lưu ý rằng các chuỗi hiện tại của hệ thống chuỗi hành trình – đặc biệt liên quan đến giai đoạn vận chuyển cuối – thường khá vô trách nhiệm, không có trách nhiệm giải trình.

“Một cách để tăng cường quá trình chuỗi hành trình cho các tổ chức mà cuối cùng có trách nhiệm và rủi ro để triển khai một hệ thống theo dõi sát bằng một hệ thống cốt lõi duy nhất quản lý sản phẩm từ nhà sản xuất đến điểm giao hàng”, ông nhận định. Hệ thống này có thể kết hợp với GS1 và chương trình theo dõi – dánh dấu logistics để phối hợp hạn sử dụng kiện hàng cùng hệ thống mã vạch để việc thay đổi hệ thống ít nhất.

TOP 10 VẤN ĐỀ CHUỖI CUNG ỨNG Y TẾ

Những nghiên cứu gần đây được công bố trên Tạp chí Khoa học về hoạt động nghiên cứu y học đã đưa ra Top 10 vấn đề trong chuỗi cung ứng y tế, trình bày những khó khăn hàng đầu trong lĩnh vực này. Qua nhiều cuộc khảo sát và phỏng vấn 22 tập đoàn lớn trong ngành có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng y tế và dược phẩm trên thế giới – từ hãng sản xuất lớn đến các cơ sở cá nhân, các nhà nghiên cứu đã tổng kết được các thử thách chính trong việc vận chuyển dược phẩm theo danh sách dưới đây:

1. Thiếu sự phối hợp; 2. Quản lý hàng tồn kho; 3. Thiếu thông tin yêu cầu từ khách hàng; 4. Phụ thuộc vào nguồn nhân lực; 5. Quản lý đơn hàng; 6. Thiếu sự từ chối đơn hàng; 7. Sản phẩm hết hạn sử dụng; 8. Quản lý kho bãi; 9. Quản lý nhiệt độ lý tưởng; 10. Theo dõi kiện hàng.

Các tác giả này đã cố ý giới hạn các khảo sát chỉ về những sản phẩm dược phẩm trong những khu vực đang phát triển thay vì “các dịch vụ giao hàng dịch vụ y tế và các sản phẩm trên toàn cầu”, đưa ra kết luận về sự mong đợi của họ về những phát hiện này “sẽ giúp thúc đẩy các hành động trong tương lai, các chính sách và nghiên cứu có thể giúp cải thiện việc vận chuyển dược phẩm trong các khu vực đang phát triển, từ đó cứu được nhiều người hơn”.

 Theo inboundlogistics.com

Phát triển chuỗi cung ứng rau quả

(Vietnam Logistics Review) 2014 là năm ghi dấu ấn mạnh mẽ của ngành rau quả VN khi lần đầu tiên lọt vào danh sách các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD (cụ thể là 1,47 tỷ USD). Tuy nhiên, chuỗi cung ứng rau quả VN hiện vẫn còn nhiều hạn chế nên giá trị gia tăng thấp và chưa bền vững.

CHUỖI CUNG ỨNG RAU QUẢ VN

Chuỗi cung ứng rau quả VN có sự tham gia của các thành viên cơ bản như nông dân trồng rau quả, thương lái thu gom, người bán buôn, DN chế biến, người xuất khẩu, người bán lẻ, khách hàng nội địa và quốc tế.

Sản xuất rau quả

Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến hết năm 2014, diện tích rau quả cả nước đạt khoảng 1.650 nghìn ha; trong đó diện tích rau khoảng 850.000 ha, sản lượng 14,5 triệu tấn và diện tích cây ăn quả trên 800.000 ha, sản lượng trên 7,5 triệu tấn. Diện tích và sản lượng rau quả phân bố chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL, Đông Nam bộ và Bắc Trung bộ. Trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng sản xuất rau lớn nhất, còn khu vực ĐBSCL là vùng sản xuất quả chủ yếu của cả nước.

Những sản phẩm rau quả mà thị trường có nhu cầu cao thì VN cũng có ưu thế cạnh tranh trong sản xuất như: mặt hàng rau quả tươi (thanh long, bưởi, xoài, vải, chôm chôm, bắp cải, cà chua, dưa chuột, các loại đậu, rau gia vị…); rau quả chế biến (dứa, vải, ngô, cà rốt, hành, gấc…); rau quả chiên giòn (mít, khoai, chuối…).

Tuy vậy, sản xuất rau quả của VN chủ yếu do nông dân tiến hành mang tính cá thể, tự phát nên có quy mô nhỏ lẻ, phân tán, giá thành cao, chất lượng thấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa lớn, khó khăn trong chuyển giao khoa học kỹ thuật mới, khả năng cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực. Diện tích rau quả được áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGap, GlobalGap,…) hoặc theo hướng an toàn còn thấp, chỉ chiếm khoảng 5% tổng diện tích trồng trọt. Việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan luôn là nguyên nhân chính dẫn đến không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng đến thương hiệu rau quả VN trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Chẳng hạn như, năm 2012, các lô hàng rau quả của VN nhập khẩu vào EU đã bị cảnh báo về mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm: rau thơm nhiễm vi sinh vật (Salmonella, Ecoli…); Gia vị có độc tố nấm mốc (Ochratoxin A); rau và quả tươi có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (Carbendazim), nhiễm vi khuẩn (Campylobacterpp., Clostridium)… Một điểm hạn chế nữa là sự cộng tác giữa người trồng rau quả và các DN chế biến, bán buôn, bán lẻ thông qua hợp đồng tiêu thụ còn ít mà chủ yếu do người trồng tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình.

Thu hái, bảo quản và chế biến rau quả

Hoạt động thu hái, phân loại, đóng gói và bảo quản rau quả vẫn chủ yếu được tiến hành theo phương thức thủ công. Thiết bị và công nghệ bảo quản còn thiếu và lạc hậu; cước phí vận chuyển rau quả cao. Những tồn tại đó khiến cho tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lên tới 20-25%, chất lượng rau quả thấp, giá thành cao. Thêm vào đó, việc sử dụng các hóa chất bảo quản chưa được kiểm soát chặt chẽ, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.

Ở khâu chế biến rau quả, cả nước hiện có trên 100 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất 300.000 TSP/năm. Ngoài ra còn có hàng ngàn cơ sở chế biến quy mô nhỏ như sấy vải, nhãn, muối dưa chuột… Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở chế biến rau quả không đủ nguyên liệu sản xuất, công suất thực tế trung bình chỉ đạt khoảng 30%. Rau quả chế biến sâu chỉ chiếm khoảng 10% và chủ yếu gồm các loại như đóng hộp, đông lạnh, pure, cô đặc, nước quả, chiên sấy, muối… Trong số đó, sản phẩm đóng hộp chiếm đến 50%, tiếp theo là sản phẩm cô đặc và đông lạnh.

Tiêu thụ rau quả

Rau quả VN chủ yếu được tiêu thụ trong nước ở dạng tươi, với tỷ lệ khoảng 90%; số còn lại được dùng để chế biến và xuất khẩu. Ở thị trường trong nước, rau quả được tiêu thụ thông qua hệ thống các chợ truyền thống, siêu thị, cửa hàng, bán rong, trong đó chợ là hình thức phổ biến và chủ yếu nhất. Mức tiêu thụ rau quả bình quân trên thị trường nội địa hiện nay là 78kg/người/năm và dự báo con số này sẽ tăng trưởng khoảng 10%/năm.

Về thị trường xuất khẩu, hiện sản phẩm rau quả VN đã có mặt trên 60 nước và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu rau quả VN liên tục tăng, năm 2012 mới chỉ đạt 829 triệu USD nhưng đến năm 2014 đạt 1,47 tỷ USD (trong đó gần 90% là quả).

Thị trường tiêu thụ lớn nhất các loại rau quả của VN vẫn là Trung Quốc với 29,22% trong tổng kim ngạch, đạt 435,74 triệu USD, tăng 36,19% so với năm 2013. Tiếp sau là thị trường Nhật Bản với 75,03 triệu USD, chiếm 5,03%, tăng 22,55%. Xuất khẩu sang Mỹ đạt 60,74 triệu USD, chiếm 4,07%, đạt mức tăng 18,05%. Ngoài những thị trường truyền thống trên, rau quả VN cũng có mặt ở nhiều thị trường mới như Hồng Kông, UAE, Hà Lan… Một tín hiệu khả quan từ thị trường hết sức khó tính là Mỹ mới đây đã chấp nhận cho phép nhập khẩu nhãn của VN. Tháng 12.2014, nhãn VN xuất khẩu sang Mỹ thành công cả bằng đường hàng không và đường biển. Sắp tới, Mỹ còn xem xét cho phép nhập khẩu vải, táo và xoài của VN.

Bên cạnh những thành công đó, xuất khẩu rau quả của VN còn bộc lộ nhiều vấn đề. Chẳng hạn, việc xuất khẩu rau quả sang thị trường lớn nhất là Trung Quốc chủ yếu lại qua đường tiểu ngạch nên gặp nhiều khó khăn, rủi ro và không ổn định. Cùng với đó, 5 trường hợp vi phạm an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực phẩm khi xuất khẩu rau quả sang EU cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu và uy tín của mặt hàng rau quả VN trên thị trường quốc tế.

ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG RAU QUẢ VN

Chúng ta có thể nhận thấy, chuỗi cung ứng rau quả của VN tuy đã đạt được một số thành công nhất định nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập khiến cho giá trị gia tăng thấp và chưa bền vững. Do đó, các cơ quan chức năng cùng với những người sản xuất và kinh doanh rau quả cần tìm ra giải pháp phù hợp để phát triển chuỗi cung ứng rau quả VN.

Xác định các sản phẩm rau quả mà thị trường có nhu cầu cao và VN có lợi thế cạnh tranh như: rau quả tươi (thanh long, bưởi, xoài, vải, chôm chôm, bắp cải, cà chua, dưa chuột, các loại đậu rau, rau gia vị…); rau quả chế biến (đông lạnh IQF: dứa, vải, ngô, cà rốt, hành…); pure, cô đặc: gấc, lạc tiên, dứa…; chiên giòn: (mít, chuối, khoai tây…) để tập trung đầu tư phát triển vùng nguyên liệu.

– Rà soát và điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là đối với những loại rau quả chủ lực và có lợi thế để đảm bảo cân đối với khả năng tiêu thụ, tránh việc mở rộng tự phát và phát triển nóng vượt tầm kiểm soát. Đẩy mạnh chuyển đổi đất trồng lúa khó tưới sang trồng các loại rau quả chủ lực, có thị trường và phục vụ chế biến.

– Đánh giá giống, chất lượng giống và các cây đầu dòng; quản lý tốt cây giống, nguồn gen quý để chọn lọc, lai tạo giống tốt cung cấp cho sản xuất.

– Tổ chức sản xuất rau quả theo chuỗi với quy mô lớn; sử dụng giống mới, kỹ thuật thâm canh nâng cao năng suất, chất lượng, áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGap, GlobalGap…); gắn kết các DN chế biến, bảo quản, xuất khẩu với vùng nguyên liệu.

– Đầu tư công nghệ, thiết bị bảo quản rau quả tiên tiến (chiếu xạ, xử lý bằng nước nóng, bảo quản trong môi trường khí quyển cải biến, điều chỉnh; kho bảo quản lạnh, bảo quản bằng các loại màng an toàn…) để sản phẩm đáp ứng được yêu cầu chất lượng của các thị trường khó tính (Nhật, Mỹ, EU…).

– Xúc tiến và kêu gọi đầu tư trong nước và liên doanh, liên kết với các DN nước ngoài để xây dựng các khu công nghệ cao cho sản xuất, chế biến và bảo quản rau quả. Nâng cấp, hiện đại hóa các dây chuyền chế biến, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao, để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng rau quả chế biến.

– Áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến (HACCP, ISO 22000,…) để sản phẩm rau quả đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm.

– Chú trọng xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu cho các sản phẩm rau quả chủ lực của VN; thực hiện tốt các cam kết với ASEAN, WTO, các Hiệp định Bảo vệ và kiểm dịch thực vật của các nước nhập khẩu nông sản.

– Phát triển, mở rộng thị trường nội địa, nhất là các khu du lịch, các khu đô thị, khu dân cư lớn. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, giữ vững các thị trường lớn, truyền thống và mở rộng các thị trường Đông Âu, Trung Đông, Nga, Ấn Độ…

ThS. Trần Thị Thu Hương

Thị trường tài chính chuỗi cung ứng tăng trưởng khắp thế giới

(Vietnam Logistics Review) Trên toàn cầu, thị trường tài chính chuỗi cung ứng (SCF) đang được mở rộng phát triển. Một báo cáo mới từ Nhà xuất bản BCR, một hãng chuyên cung cấp tin tức về các ngành công nghiệp tài chính, ước tính mức tăng trưởng ở ngành này sẽ đạt 30% mỗi năm. Nghiên cứu từ BCR cho thấy thị trường này có thể mang giá trị đến 43 tỉ Euro đối với mức quỹ đang được sử dụng.

Tài chính chuỗi cung ứng, một ngành đã từng được những ngân hàng lớn đánh giá khá cao, đang dần bị thu nhỏ lại, theo từng vùng và khu vực trong nước cung cấp dịch vụ này. Việc hoàn thiện đang có tiến triển khi nhiều người tham gia sân chơi này hơn, từ đó đặt áp lực giảm giá. Anil Walia, người đứng đầu ngành tài chính chuỗi cung ứng tại Ngân hàng Hoàng gia Scotland, cho các nhà nghiên cứu BCR biết rằng ông dự đoán xu hướng này sẽ tiếp tục tìm kiếm những thị trường mới hơn. “Cho dù chúng tôi có thể cung cấp ở mức độ ngân hàng ổn định, việc này cũng khá khó khăn. Nếu không thể đáp ứng, cả thị trường có thể có chút chấn động trong 2 năm tới”, ông Walia chia sẻ.

Công nghệ là một xu hướng thay đổi lớn việc cung cấp tài chính cho các ngân hàng và chuỗi cung ứng. Việc sử dụng cả hai công nghệ điện toán đám mây và hóa đơn trực tuyến giúp người cho vay có tầm nhìn sâu hơn vào tiềm năng trước mắt. Hóa đơn trực tuyến cho các nhà cung cấp khả năng theo dõi rõ hơn về các mô hình mua hàng và khả năng tài chính của một số DN tìm nguồn tài chính. Thêm vào khả năng theo dõi thời gian thực của hệ thống điện đám mây và tài chính giúp người dùng có thể truy cập ngay lập tức dữ liệu giao dịch. Cởi mở và minh bạch tài chính giúp các nhà cung cấp tài chính sở hữu một bộ hồ sơ rủi ro về thực tế và loại bỏ rất nhiều rủi ro trong quá trình tài trợ chuỗi cung ứng. Công cụ điện tử cũng mở ra cơ hội mới cho ngành kinh doanh, tài chính như tính toán trước khi xuất hàng. Tăng sự quan tâm cho các công cụ điện tử xung quanh chuỗi cung ứng, như hệ thống purchase-to-pay, giúp ngân hàng có cái nhìn rõ ràng hơn vào khả năng chi trả.

Tăng trưởng tổng thể về ngành tài chính chuỗi cung ứng dự kiến sẽ rất mạnh mẽ. Theo từng khu vực, mỗi thị trường được dự đoán sẽ có mức độ khác nhau của sự phát triển và những thách thức đặc biệt cho mỗi vùng.

CHÂU Á

Châu Á là thị trường SCF trẻ nhất, được dự kiến rằng sẽ có sự tăng trưởng cao nhất lên đến 50%. Những lĩnh vực tăng trưởng hàng đầu bao gồm ngành bán lẻ, điện tử, dệt may và hàng tiêu dùng. Shivkumar Seerapu, Trung tâm tài chính thương mại châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Giao dịch toàn cầu tại Deutsche Bank, nêu bật sự quan tâm của cả các ngân hàng và những lĩnh vực khác của công ty trong việc khám phá ngành tài chính chuỗi cung ứng. Đặc biệt, các tập đoàn đa quốc gia có nhà máy tại khu vực đang đẩy mạnh yêu cầu.

Seerapu cũng tập trung vào các nhu cầu giáo dục. Trong khi các tập đoàn đa quốc gia lớn nhận thức tầm quan trọng của tài chính chuỗi cung ứng, rất nhiều hãng không biết ngành này có thể giúp các DN địa phương như thế nào. Trong các thị trường như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan, khái niệm vẫn chỉ mang tính tương đối. Dù khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, đây cũng là thị trường có mức đầu tư kinh phí thấp nhất. Bản báo cáo ước tính giá trị của thị trường chỉ khoảng 6 tỷ đến 10 tỷ Euro (6.5 đến 11 tỷ USD) trong năm nay.

CHÂU MỸ

Khu vực này được hưởng những lợi ích từ việc là nhà của ba thị trường tài chính chuỗi cung ứng đã phát triển: Hoa Kỳ, Canada và Mexico. Mỹ có giá trị quỹ chuỗi cung ứng lớn nhất trong cả ba với 22 tỷ Euro (24 tỷ USD). Về mặt nhận thức, giáo dục và phát triển, đây là khu vực đi đầu. Nhờ vào thị trường tiên tiến của mình, châu Mỹ sẽ có tốc độ tăng trưởng khá chậm vào năm nay. BRC ước đoán rằng mức phát triển chỉ đạt 15-25%, thấp nhất trong tất cả các khu vực được khảo sát.

Quản lý biên tập của báo cáo năm 2015, Eugenio Cavenaghi, tin rằng các cấp độ tiếp theo của sự phát triển ở châu Mỹ sẽ yêu cầu các ngân hàng trong lĩnh vực tài chính chuỗi cung ứng làm việc chăm chỉ hơn. Thị trường trong nước của khu vực là một trong những thị trường bão hòa nhất. Cơ hội tăng trưởng lớn nhất sẽ được tìm thấy ở quốc tế – nơi mà các nhà cung cấp ở đây khá lạ lẫm.

CHÂU ÂU, TRUNG ĐÔNG VÀ CHÂU PHI

Được kết hợp giữa các thị trường lớn tại Vương Quốc Anh, Liên minh châu Âu và các thị trường mới nổi ở châu Phi, khu vực này đang phải đối mặt với chiến lược tiên tiến hơn và khó khăn ngày càng nhiều. Việc phân chia được thấy rõ hơn từ các phương diện tiếp cận khác nhau của ngân hàng. Trên khắp châu Âu, các ngân hàng đang tập trung vào những mảng cao cấp của thị trường, đặc biệt kén chọn khi làm việc với nhà cung cấp. Tại khu vực Bắc Phi và Trung Đông, ngân hàng đang dần chuyển hướng sang việc xâm nhập thị trường các DN vừa và nhỏ. Nhìn chung, khu vực sẽ đạt mức phát triển khoảng 15-30%, với tiềm năng tăng trưởng lên thành một thị trường trị giá 17 tỉ Euro (18 tỉ USD).

Lãi suất và nhu cầu về ngành tài chính chuỗi cung ứng ngày càng rõ rệt. Đồng thời, còn rất nhiều việc cần phải thực hiện trong điều kiện tối đa hóa sức tăng trưởng và nâng cao nhận thức từ thị trường. Các DN cần nguồn vốn lưu động, đặc biệt trong thời kì cho vay chậm chạp.

 Theo: VietNam Logistics Review.

Giải phóng hàng hóa tồn đọng tại cảng biển

(Vietnam Logistics Review) Cho đến nay, việc giải quyết hàng hóa tồn đọng tại cảng biển chưa thu được hiệu quả rõ rệt, chỉ chiếm khoảng 15% tổng số hàng hóa container đang tồn đọng tại cảng biển. Tính đến ngày 15.3.2015, số lượng hàng hóa tồn đọng chủ yếu tại khu vực cảng biển Hải Phòng là 5.176 container (trong đó, cảng Hải Phòng 1.068 container; cảng Nam Hải 770 container; cảng Đoạn Xá 783 container…); khu vực cảng biển Quảng Ninh 52 container; Đà Nẵng 99 container; TP.HCM 177 container, 1.323 kiện…;

Hàng hóa tồn đọng tại cảng biển chủ yếu thuộc loại hàng tạm nhập, tái xuất, nhập máy móc thiết bị tạo tài sản cố định, nhập kinh doanh là các loại hàng cao su, lốp cao su đã qua sử dụng; quần áo đã qua sử dụng; phế liệu; thiết bị điện đã qua sử dụng; hàng điện tử đã qua sử dụng, thực phẩm đông lạnh, máy móc, dây chuyền thiết bị…

GIẢI QUYẾT HÀNG HÓA TỒN ĐỌNG

Trong quá trình thực hiện giải quyết hàng hóa tồn đọng nhiều năm trở lại đây, mặc dù Chính phủ, Bộ GTVT, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan đã quyết liệt và có rất nhiều các văn bản hướng dẫn nhưng đến nay việc xử lý vẫn còn nhiều bất cập và không giải quyết được được dứt điểm. Hàng hóa tồn đọng tại cảng biển với số lượng ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp và thời gian tồn đọng rất lâu, có container kéo dài đến 5 đến 6 năm vẫn chưa được xử lý. Điều này, gây khó khăn, thiệt hại rất lớn cho các DN cảng biển, hãng tàu, lãng phí tài sản cho nhà nước và làm ô nhiễm môi trường.

Các DN cảng biển, hãng tàu biển cũng đã có rất nhiều văn bản kiến nghị lên cơ quan chức năng, cơ quan hải quan khu vực đề nghị giải quyết hàng hóa tồn đọng. Cảng Hải Phòng đã chủ động có cơ chế miễn một phần hoặc toàn bộ chi phí lưu kho bãi, nâng hạ, bảo quản nhưng cũng chỉ xử lý được khoảng 318 container.

Sau khi thành lập tổ công tác và các cơ quan quyết liệt xử lý mới giải phóng được 780 container chiếm khoảng 15% tổng số hàng hóa đang tồn đọng tại cảng biển.

NHỮNG TỒN TẠI BẤT CẬP

Việc giải quyết hàng hóa tồn đọng được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành khác nhau như: hàng hải, hải quan, thương mại…). Trong đó, Thông tư số 203/2014/TT-BTC thay thế Thông tư số 15/2014/TT-BTC hướng dẫn xử lý hàng hóa tồn đọng trong khu vực giám sát hải quan có hiệu lực kể từ ngày 05.02.2015 trên 01 tháng chưa được triển khai quyết liệt và đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan nên việc giải phóng hàng hóa tồn đọng chưa có kết quả rõ rệt.

Đặc biệt, liên quan đến xác lập quyền sở hữu nhà nước đối với hàng hóa tồn đọng, trình tự thực hiện bán đấu giá chưa quy định quyền và nghĩa vụ các bên và nhiều vấn đề liên quan khác như theo Khoản 3 Điều 19 của Thông tư 203/2014/TT-BTC (cũng được quy định tại Khoản 3 Điều 33 của Thông tư 15/2014/TT-BTC) quy định trường hợp chưa có nguồn kinh phí để thực hiện chi trả Hội đồng tạm ứng kinh phí từ tài khoản tạm giữ, dự toán ngân sách thường xuyên của cục hải quan hoặc của DN quản lý hàng hóa tồn đọng để thực hiện chi trả từ nguồn ngân sách là một trong những nguyên nhân chính làm chậm quá trình thanh lý hàng hóa tồn đọng.

Ngày 07.9.2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan. Tuy nhiên, vẫn tồn tại số lượng lớn hàng hóa tồn đọng tại cảng biển đa dạng về chủng loại, tồn đọng qua nhiều thời kỳ thuộc phạm vi điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại các thời điểm khác nhau, nội dung chưa thống nhất rất phức tạp và mất thời gian.

Trường hợp các DN tiếp tục muốn nhận hàng hoặc làm thủ tục tái xuất nhưng lại thiếu giấy phép của Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc giấy phép hết hiệu lực cũng cản trở việc thanh lý hàng. Ngoài ra, năng lực tiêu hủy đối với hàng hóa không còn giá trị sử dụng hoặc đối tượng buộc tiêu hủy như: phế thải nhựa, hàng đông lạnh… rất hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chi phí tiêu hủy cao…

KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Thực hiện văn bản số 80/TB-BGTVT ngày 02/02/2015 của Bộ GTVT về thông báo kết luận của Bộ trưởng Đinh La Thăng tại cuộc họp kiểm điểm công tác rà soát, xây dựng, triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, các đề án tháng 01.2015 về việc xử lý hàng hóa tồn đọng tại cảng biển, ngày 06.3.2015, Cục Hàng hải VN đã tổ chức họp giải quyết hàng hóa container tồn đọng tại cảng biển.

Để kịp thời có biện pháp xử lý hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật theo chỉ đạo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại văn bản số 1064/VPCP-KTTH ngày 09.3.2015 và hạn chế tình trạng hư hỏng đối với hàng hóa, giảm thiệt hại cho DN cảng, giải phóng container rỗng cho chủ tàu, gây lãng phí tài sản của nhà nước; đồng thời, để tránh hàng hóa để lâu làm ô nhiễm môi trường và tránh các trường hợp tiếp diễn tồn đọng hàng hóa tại cảng biển, Cục Hàng hải kiến nghị Bộ GTVT:

– Thành lập Tổ công tác liên ngành và giao Cục Hàng hải VN chủ trì, phối hợp với các cơ quan như: Vận tải, Pháp chế (Bộ GTVT); Tổng Cục Hải quan VN (Bộ Tài chính), Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Tổng cục Môi trường, VCCI… nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý hàng hóa tồn đọng tại cảng biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải 2005 (Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16.5.2006 của Chính phủ về việc xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển) và Luật Hải quan năm 2014 (Thông tư số 203/2014/TT-BTC) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan nhằm hướng dẫn DN cảng biển, hãng tàu biển, đại lý tàu biển nước ngoài, giảm thiểu tồn đọng container tại cảng biển và chủ động tái xuất hàng hóa ra khỏi lãnh thổ VN.

– Chỉ đạo Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy VN, Tổng Công ty Hàng hải VN đề xuất phương án xử lý 183 container đang tồn đọng tại Cảng Hải Phòng về xử lý hàng hóa tồn đọng của các Tổng Công ty Vinalines và Vinashin tại các cảng trên địa bàn Hải Phòng và hướng dẫn của Tổng cục Hải quan VN tại công văn số 15428/TCHQ-GSQL ngày 30/12/2014.

– Có ý kiến với Bộ Tài chính sớm thống nhất với các bộ, ngành liên quan đề nghị Tổng Cục Hải quan phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện giải quyết hàng hóa tồn đọng theo quy định của Thông tư số 203/2014/TT-BTC ngày 22.12.2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để thực hiện giải quyết số hàng hóa tồn đọng tại cảng biển hiện nay và giảm số lượng hàng hóa tồn đọng trong thời gian tới.

Theo: Vietnam Logistics Review.

Doanh nghiệp trước Cam kết WTO về logistics

(Vietnam Logistics Review) Theo cam kết gia nhập WTO, VN sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, Logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại VN. Điều này đặt DN VN trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà.Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, từ sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các DN logistics.

THÁCH THỨC CỦA DN LOGISTICS VN

Các DN logistics của VN thường có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hàng hóa – dịch vụ thiếu sức cạnh tranh, hoạt động lại manh mún, kinh doanh còn theo kiểu chụp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh, thi nhau hạ giá dịch vụ để giành được hợp đồng và thường là hạ giá thành thuê container, điều này chỉ có các DN trong nước bị thiệt, còn DN nước ngoài là những người chủ tàu sẽ đóng vai trò ngư ông đắc lợi. Một thực tế khác là trong khi các DN của VN còn đang mãi “đá nhau” thì các tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới như APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics, NYK Logistics…, những tập đoàn hùng mạnh với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước.

Các DN logistics tại VN hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của VN hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất.

Hiện nay, các DN VN phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo, đào tạo…, chi phí cho giao nhận, kho vận còn chiếm tới 20% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ vào khoảng 8-2%. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa của  DNVN so với DN nước ngoài vốn đã rất mạnh. Tình trạng thiếu vốn cũng là thách thức lớn nhất đối với DNVN.

MỘT SỐ GỢI Ý CHO DN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS VN

Trong điều kiện thực hiện đầy đủ các cam kết về dịch vụ logistics theo quy định của WTO chắc chắn sẽ là một thử thách lớn cho các DN kinh doanh dịch vụ logistics của VN. Sự cạnh tranh vốn lợi thế đã nằm trong tay DN nước ngoài thì nay lại càng trở nên khó khăn hơn cho các DNVN. Khi các quy định về giới hạn điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics của các DN nước ngoài tại VN được dỡ bỏ. Để hạn chế được phần nào những khó khăn, chúng tôi gợi ý một số yêu cầu mà DN kinh doanh dịch vụ logistics của VN cần chú trọng như sau:

Thứ nhất, cần tăng độ bao phủ trên phạm vi toàn cầu: Độ bao phủ của các DN logistics VN chỉ trong phạm vị nội địa hoặc một vài nước trong khu vực. Các DN VN phần lớn là DN “sinh sau đẻ muộn” so với rất nhiều công ty nước ngoài vốn có lịch sử phát triển từ lâu đời như APL với kinh nghiệm trên 100 năm, Maersk gần 100 năm… Chính vì thế, các công ty này có độ bao phủ rộng lớn trên toàn cầu. Ví dụ như APL Logistics với gần 100 quốc gia, Maersk Logistics bao phủ 60 quốc gia, Exel bao phủ 60 quốc gia. Chính vì vậy, nhìn từ ưu điểm độ bao phủ rộng của các công ty logistics lớn, chúng ta cần rút ra bài học và tích cực mở rộng phạm vi hoạt động và độ bao phủ mới có thể đáp ứng nhu cầu logistics trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ hai, cần đa dạng hóa các dịch vụ logistics, đặc biệt là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao: Phần lớn các DN VN chỉ tập trung vào khai thác những mảng nhỏ và thị trường ngách trong dịch vụ logistics, phổ biến là hình thức giao nhận vận tải. Trong chuỗi logistics hiện đại, các công ty logistics lớn như Maersk Logistics, APL Logistics, P&O Nedlloyd Logistics… đang cung cấp cho khách hàng của họ rất nhiều dịch vụ đa dạng với giá trị gia tăng cao. Thời gian tới các DN VN cần phải tập trung phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển dịch vụ logistics theo hướng 3PL (dịch vụ trọn gói, tích hợp); thêm nhiều giá trị gia tăng phục vụ khách hàng.

Thứ ba, cần nâng cao năng lực cạnh tranh, để có thể tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu: trong quan hệ thương mại quốc tế, phần lớn các nhà xuất khẩu của VN chủ yếu là xuất khẩu hàng theo điều kiện FOB, FCA trong Incoterms (nghĩa là người bán chỉ cần giao hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng theo qui định là hết trách nhiệm). Như vậy, quyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và phần lớn người mua sẽ chỉ định một công ty nước họ, hoặc một đối tác lâu dài của họ để thực hiện điều này. Và các công ty logistics của VN sẽ là người ngoài cuộc. Thực tế này yêu cầu các DN logistics VN cần nâng cao tính cạnh tranh và khả năng đàm phán để có thể tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu trong đó VN là đối tác gia công hoặc
sản xuất.

Thứ tư, ứng dụng CNTT vào hoạt động kinh doanh của DN: Nhìn chung việc ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động logistics của DNVN vẫn còn kém xa so với các công ty logistics nước ngoài. Chính vì vậy DN dịch vụ của chúng ta cần hết sức chú trọng tới vấn đề này.

Thứ năm, sự liên kết giữa các DN dịch vụ logistics VN. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với các DN VN trong tình hình hiện nay. Vì thực tế các DN logistics của VN hoạt động còn manh mún, thiếu hẳn sự liên kết, hợp tác cần thiết. Trong xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài, mỗi DN cần tập trung vào thế mạnh của mình và sẽ thuê ngoài các dịch vụ không phải là thế mạnh. Vì thế, tính liên kết và hợp tác trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đã đến lúc các DN logistics VN cần liên kết phối hợp để có thể cung ứng ra thị trường một chuỗi các dịch vụ logistics cho khách hàng. Một công ty giao nhận có thể liên kết với một công ty kho bãi, công ty vận tải, công ty môi giới và công ty hàng không để tạo thành một chuỗi liên kết chặt chẽ.

Thực hiện đồng bộ các yêu cầu này là việc cần làm ngay của các DN kinh doanh dịch vụ logistics của chúng ta nếu không muốn miếng “bánh ngon” bị các DN nước ngoài chiếm lấy, còn DNVN chỉ còn là những người làm công, nhường sân chơi cho các “đại gia logistics nước ngoài” vì không đủ năng lực.

ThS. Đoàn Ngọc Minh
Theo: Vietnam Logistics Review.